Cách đây 60 năm, ngày 20-1-1949 Quân đội nhân dân Lào ra đời tại chiến khu Xiềng Khọ, tỉnh Sầm Nưa (nay là tỉnh Hủa Phăn), tiền thân là đội Lát-xa-vông, đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên, do đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản chỉ huy. Sau đó hợp nhất với các đội vũ trang khác trong cả nước thành Quân đội Lào Ít-xa-la (Quân đội Lào tự do), khi thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, còn gọi là lực lượng Pa-thét Lào.
Quân đội nhân dân Lào ra đời trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp của nhân dân các bộ tộc Lào. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân các bộ tộc Lào đã anh dũng đấu tranh, tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa của Lát-xa-vông, Com-ma-đam, Pa-chay… thể hiện tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân các bộ tộc, viết nên những trang sử hào hùng của đất nước Lào.
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân các bộ tộc Lào đã nhảy vọt về chất. Từ đây, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Lào đã có một chính đảng vô sản lãnh đạo, có đường lối đúng đắn, xác định mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng. Vì vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đã chuyển từ tự phát sang tự giác và được tổ chức chặt chẽ. Đảng Cộng sản Đông Dương và Xứ ủy Ai Lao rất coi trọng xây dựng lực lượng cách mạng ở Lào, bao gồm lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, cùng với vận dụng linh hoạt, sáng tạo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị nên cách mạng Lào có những chuyển biến quan trọng.
Vào đầu những năm 40 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế và Đông Dương có nhiều thay đổi: Chiến tranh thế giới lần thứ hai lan rộng ở một số nước, nước Pháp bị Đức chiếm đóng, Pháp đầu hàng Nhật ở Đông Dương… Trước tình hình đó, những người cộng sản ở Lào đã tăng cường lãnh đạo, đẩy mạnh đấu tranh xây dựng lực lượng, tổ chức chiến khu, chuẩn bị vũ trang và sẵn sàng nắm thời cơ giành chính quyền, giải phóng đất nước. Tiếp theo sự kiện Việt Nam tuyên bố độc lập, ngày 12-10-1945, Chính phủ Lào Ít-xa-la được thành lập. Ngày 14-10-1945, Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa tuyên bố công nhận Chính phủ Lào Ít-xa-la, sau này còn ký Hiệp định về quân sự giữa hai Chính phủ, thành lập liên quân Lào-Việt để thống nhất lãnh đạo và chỉ huy tác chiến, bảo vệ nền độc lập của hai dân tộc mới giành được. Vì vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, nhờ sự giúp đỡ của Việt Nam, lực lượng vũ trang cách mạng Lào được xây dựng, phát triển khá nhanh, nhất là ở Viêng-chăn, tỉnh Xa-va-na-khét. Lực lượng vũ trang địa phương phát triển ở các tỉnh với 3, 4 đại đội và hàng nghìn tự vệ. Nhờ quan hệ máu thịt giữa Chính phủ hai nước, đoàn kết chiến đấu, giúp nhau trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giữa hai dân tộc, lực lượng vũ trang hai nước cũng gắn bó keo sơn, phối hợp chiến đấu cùng giành chiến thắng.
Tháng 3-1955, Đảng Nhân dân cách mạng Lào tiến hành Đại hội lần thứ nhất, vạch ra nhiệm vụ quan trọng cho giai đoạn đấu tranh cách mạng mới, quyết định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang. Từ đó, quân đội Pa-thét Lào vừa phát triển, vừa chiến đấu kết hợp phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của nhân dân, đã đánh bại cuộc tiến công với quy mô lớn của ngụy quân Viêng-chăn được Mỹ và cố vấn Pháp giúp đỡ, buộc địch phải ký Hiệp định Viêng-chăn, thành lập Chính phủ liên hiệp lần thứ nhất, có Neo Lào Hắc-xạt tham gia. Khi đế quốc Mỹ can thiệp, tiến hành cuộc chiến tranh ở Đông Dương, Mặt trận yêu nước Lào do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông và các lãnh tụ Neo Lào Hắc-xạt lãnh đạo, các lực lượng vũ trang cách mạng Lào sẵn sàng chiến đấu chống Mỹ, cứu nước vì độc lập tự do của Tổ quốc Lào. Quân đội Lào phát triển lúc đầu có 2 tiểu đoàn (1.500 người), từ năm 1958 đến năm 1961 có nhiều tiểu đoàn chủ lực với 14.000 cán bộ, chiến sĩ đủ các lực lượng bộ binh, pháo binh, xe tăng, phòng không… hoàn chỉnh hệ thống tổ chức, chỉ huy từ Bộ chỉ huy tối cao đến các quân khu, tỉnh, huyện, đơn vị cơ sở. Đến năm 1980, tổng số quân gần 70.000 người, gồm cả bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu và trực tiếp vào Lào bằng những bước leo thang chiến tranh, chiến tranh càng quyết liệt, ngọn lửa đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Lào càng bùng lên mạnh mẽ. Bộ đội Pa-thét Lào đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cùng với nhân dân kiên cường, dũng cảm chiến đấu, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Như vậy, Quân đội nhân dân cùng với nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Với mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt giữa hai nước Việt-Lào có chung kẻ thù, cùng chung lý tưởng, trung thành với nghĩa vụ quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã đưa một bộ phận Quân đội nhân dân Việt Nam tình nguyện trong nhiều năm sang phối hợp với lực lượng Pa-thét Lào chiến đấu chống quân xâm lược, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong các cuộc kháng chiến.
Khi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời ngày 2-12-1975, quan hệ đặc biệt Việt-Lào chuyển sang giai đoạn mới. Quân đội nhân dân Việt Nam góp phần huấn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội Lào theo hướng chính quy, hiện đại, tinh nhuệ, thiện chiến. Đó là mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nhà nước, hai quân đội. Hơn 30 năm qua, mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào ngày càng được củng cố và phát triển trên bán đảo Đông Dương, cùng chung dòng sông Mê Công và Khu vực Đông Nam Á.
LÊ KHẢ PHIÊU
Nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam