Kỳ 8: Vị thuyền trưởng 9 lần “vượt biển”

Chân dung Thuyền trưởng Vũ Tấn Ích

QĐND Online - Ở Đà Nẵng ai cũng biết cựu chiến binh Vũ Tấn Ích, bởi ông là vị thuyền trưởng 9 lần “vượt biển”. Chiến công của ông và đồng đội lênh đênh trên những con tàu không số chở vũ khí từ miền Bắc “tiếp máu” cho chiến truờng miền nam đã góp phần làm nên con đường huyền thoại – đường Hồ Chí Minh trên biển...

Cơn mưa chiều vừa dứt, thành phố Đà Nẵng đã tấp nập người, xe buổi tan tầm. Trong ngôi nhà nhỏ trên phố Nguyễn Tri Phương, ông Vũ Tấn Ích đang đùa vui cùng đứa cháu nội vừa đầy tháng tuổi tên là Vũ Phan Bảo Hiên. Niềm vui người cựu binh già hiện rõ trên ánh mắt.

- “Thưa bác! Cháu là...

- Cháu vào nhà đi! Bác nhận ra rồi! Vào đây bác cháu mình ta cùng hàn huyên nào!

Ông Ích biết tôi từ hồi tôi còn là lính thủy. Mấy lần gặp mặt cựu chiến binh Đoàn tàu không số tổ chức bên Vùng 3 Hải quân, tôi đều làm “phó nháy” nên ông khá ấn tượng và nhớ tên. Vì lẽ đó mà khi tôi đặt vấn đề là ông “duyệt” ngay. Dẫu rằng đã có nhiều nhà báo tới, nhưng ông đều tế nhị từ chối.

Bên ấm trà tỏa hương nhè nhẹ, câu chuyện ông kể giúp tôi hiểu thêm về bao chiến công huyền thoại và sự mất mát, hi sinh của cán bộ, thủy thủ trên những con tàu không số năm xưa mà ông là một trong những nhân vật tiêu biểu...

“Tôi sinh năm 1930 tại xã Bình Thới, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi). Tròn 18 tuổi tôi nhập ngũ, trở thành chiến sỹ Trung đoàn 108 hoạt động trên chiến trường Khu 5. Sau khi tập kết ra Bắc, tôi sang Trung Quốc học lớp đào tạo thuyền trưởng, rồi tốt nghiệp với quân hàm trung úy, giữ chức thuyền trưởng thuyền 5 (Phân đội 1, Đoàn 130 Hải quân).

Sống cảnh “ngày Bắc, đêm Nam”, trong tôi luôn canh cánh nỗi niềm mong ngày trở về chiến đấu giải phóng quê hương. Và khát khao ấy thành hiện thực khi đầu năm 1963 tôi được Bộ tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ chỉ huy con tàu sắt thứ 2 của Đoàn 759 vận chuyển vũ khí vào miền Nam bằng đường biển. Chuyến đi ấy, tôi làm thuyền trưởng kiêm chính trị viên và bí thư chi bộ Đội 6. Đêm 12-4-1964, tại Quảng Ninh, 12 cán bộ chiến sĩ tàu chúng tôi đa phần là con em vùng Liên Khu 5 và Nam Bộ vinh dự được Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Trung tá Đoàn Hồng Phước, Đoàn trưởng Đoàn 759 gặp mặt thân mật và tiễn đưa tận bến. Đêm ấy, Trung tướng Trần Văn Trà nắm chặt tay tôi căn dặn: “Đồng chí là người chỉ huy độc lập, cao nhất, quyết định xử trí mọi tình huống. Vì thế phải tỉnh táo nắm chắc phương châm chiến đấu: Bám bờ là thế trận, bám bờ là chiến thắng. Tôi chờ tin thắng lợi!”.

Sau giây phút chia tay quyến luyến, chúng tôi bơi thuyền cao su ra tiếp nhận con tàu trọng tải 100 tấn (chở gần 60 tấn vũ khí) đang neo tại Hòn Kẽm, vịnh Bãi Cháy. Để chuyến đi đảm bảo yếu tố bí mật, tất cả quân tư trang, đồ dùng cá nhân có dấu hiệu liên quan đến miền Bắc đều để lại. Chúng tôi ngụy trang tàu giống hệt như tàu ngư dân đánh bắt xa bờ. Trong khoang cũng chất đầy lưới, ngư cụ và thực phẩm dự trữ như: mực, cá khô, mắm, muối... Tuy tàu có trọng tải tương đối lớn nhưng phương tiện hàng hải khá thô sơ, ngoài hải đồ, chỉ có một ống nhòm, một la bàn, máy vô tuyến điện sóng ngắn liên lạc với trung tâm bằng tín hiệu moóc và chiếc đèn pin dùng bắt tín hiệu với đất liền.

Lần đầu tiên tôi chỉ huy tàu vượt biển vào Nam, nên chưa thông thạo luồng, lạch. Đã vậy lại ra khơi gặp sóng to, gió lớn, tàu chiến địch rình rập suốt ngày đêm, vì thế chúng tôi phải tìm phương án tối ưu nhất để đấu trí với kẻ thù. Sau gần 10 ngày ngày lênh đênh trên biển, tàu ta vào bến Bến Tre đúng theo kế hoạch. Cứ tưởng mọi việc sẽ “thuận buồm, xuôi gió”, nhưng sự cố đã xảy ra. Suốt hai đêm liền tàu không thể nào liên lạc được với bến. Trên biển, tàu địch tăng cường mật độ tuần tiễu. Trước tình hình đó, tôi chỉ huy tàu chạy ra hải phận quốc tế, đêm đến mới xuôi về hướng Nam. Sang ngày hôm sau gặp một thuyền đánh cá của ngư dân, qua trao đổi, chúng tôi biết chắc tàu mình đã đi vào vùng có quân giải phóng. Tôi ra lệnh cho tàu thẳng hướng vào bờ. Sau khi cho anh em ngụy trang tàu cẩn thận, tôi lội vào bờ và gặp ngay đồng chí Bông Văn Dĩa (phụ trách bến) mới biết tàu đã vào bến Bạc Liêu. Nói sao hết niềm vui sướng, chúng tôi ôm nhau mà nước mắt lăn dài. Suốt hai ngày đêm lực lượng tại bến khẩn trương chuyển vũ khí từ tàu xuống xuồng ba lá về vị trí cất giấu bí mật. Trả hàng xong, chúng tôi lưu luyến tạm biệt các đồng chí, đồng bào trở ra miền Bắc. Chuyến đi ấy, tôi và tập thể tàu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai”.

Thuyền trưởng Vũ Tấn Ích cùng đồng đội vinh dự chụp ảnh lưu niệm với Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Đang kể, ông Ích đi vào nhà trong cầm cuốn album lấy một tấm ảnh tập thể trao cho tôi và nói: “Chúng tôi chụp tấm hình này từ thời còn ở Đồ Sơn-Hải Phòng. Ngày ấy sum vầy là thế, vậy mà giờ đây chẳng còn bao. Người thì đã hi sinh, người thì đã về với tiên tổ do tuổi cao, vết thương tái phát!”.

Tôi hiểu ý ông muốn nói đến sự hi sinh của những người đồng đội. Đã có lần ông kể cho tôi nghe về vết thương lòng không dễ nguôi ngoai ấy... Chuyến đi ngày 6-7-1967, sau 11 ngày trên biển, con tàu do ông làm thuyền trưởng gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây. Trước tình thế đó, ông và đồng đội vừa đánh trả vừa cơ động vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi). Trận đánh diễn ra ác liệt, nhưng ta chỉ cầm cự được một thời gian vì lực lượng không cân sức, cuối cùng Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và Phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp ở lại hủy tàu, Thuyền trưởng Vũ Tấn Ích và số thủy thủ còn lại lên bờ thoát khỏi vòng vây địch. Hôm đó, đồng chí Trạch và đồng chí Nghiệp ở lại hủy tàu, nhưng do bộc phá không nổ, hai đồng chí đã chiến đấu với địch và anh dũng hy sinh, còn con tàu thì bị rơi vào tay địch. Là người thẳng thắn, trung thực, sau sự kiện ấy ông luôn day dứt trong lòng và nhận trách nhiệm về mình. Nhưng đồng đội và cấp trên đều không nghĩ vậy vì đó là tình huống bất khả kháng diễn ra ngoài ý muốn. Với lại, chỉ trong thời gian 4 năm (từ 1963-1967), mà thuyền trưởng Vũ Tấn Ích có tới 9 lần chỉ huy những con tàu không số “vượt biển” đã là một chiến công.

Năm 1970, ông Ích chuyển tới đơn vị đặc công nước rồi về lại tiểu đoàn tàu của Quân chủng Hải quân. Năm 1975 ông vào chiến trường Liên khu 5, tham gia giải phóng thành phố Đà Nẵng và công tác tại Quân khu 5, tới năm 1982 thì nghỉ hưu với quân hàm trung tá. Tuy về hưu nhưng ông vẫn tích cực tham gia các hoạt động an sinh, xã hội ở địa phương. Căn nhà ông là nơi các cựu chiến binh Đoàn tàu không số thường xuyên lui tới ôn lại kỷ niệm một thời “vượt biển” và cùng nhau quyên góp giúp đỡ những đồng chí có hoàn cảnh khó khăn.

Ông Ích trân trọng đọc những lá thư của người vợ quá cố

 

Trong ký ức của vị thuyền trưởng 9 lần “vượt biển” ấy vẫn vẹn nguyên một thời trai trẻ gắn bó cùng những con tàu không số trên tuyến đường huyền thoại – đường Hồ Chí Minh trên biển.

Theo ông, tất cả những chuyến đi ấy, cán bộ, thủy thủ đều đối mặt với bao khó khăn, thử thách. Tất cả những người ra đi đều xác định có thể không trở về, nhưng họ luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh để vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Còn một đau khác nữa mà họ phải âm thầm gánh chịu, đó là vì để tuyệt đối giữ bí mật, trước khi rời bến không ai được tiếp xúc với bạn bè, người thân. Có đồng chí tập kết ra Bắc, xa gia đình gần chục năm trời, cùng con tàu về lại mảnh đất chôn nhau cắt rốn mà không được bước lên bờ. Có đồng chí bất ngờ thấy vợ trong đoàn dân công ra chuyển vũ khí, đã vội vàng bước xuống khoang tàu, đau đáu ngắm vợ qua cửa sổ… Thuyền trưởng Vũ Tấn Ích cũng vậy, trong thời gian lênh đênh trên con tàu không số, vợ đã gửi cho ông 36 lá thư, nhưng mãi sau này tổ chức mới trao lại.

Bà Cao Xuân Lan đã mất cách đây 14 năm nhưng ông Ích vẫn lưu giữ những kỷ vật của người vợ thân yêu để lại. 36 lá thư chan chứa tình yêu thương của bà được ông đóng thành tập và trân trọng, nâng niu như một báu vật vô giá.

Cựu chiến binh Vũ Tấn Ích là vậy đó. Từ thời xông pha trận mạc cho đến lúc về già, bao giờ ông cũng quan tâm tới người khác. Sự quan tâm ấy bắt nguồn từ tấm lòng trung thực, thẳng thắn, chân thành mà nhân ái, bao dung. Thế nên, khi tôi hỏi nguyện vọng của ông bây giờ là gì? Ông khẽ thở dài, rồi nói: “Tôi cứ trăn trở mãi về hoàn cảnh của một đồng đội, đó là anh Huỳnh Ba. Anh Ba nguyên là thủy thủ Đoàn đánh cá sông Gianh (tiền thân của Đoàn 125 ngày nay) bị địch bắt năm 1961 trong lần chở vũ khí vào Đà Nẵng. Năm 1973 được trao trả, anh tiếp tục hoạt động cách mạng. Những trận đòn roi tra tấn dã man của địch khiến anh thường xuyên ốm đau, bệnh tật, kinh tế gia đình khánh kiệt. May nhờ đồng đội quyên góp xây cho ngôi nhà nhỏ để tá túc, chứ không thì nguy. Vậy mà hầu như anh chẳng có chế độ gì. Hiện giờ anh ấy đang cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng. Mong sao Quân chủng Hải quân và cơ quan chức năng quan tâm kẻo thiệt thòi cho anh quá!”.

---------

Kỳ 1: Trận đánh quyết tử và những dòng ghi trong "Nhật ký Đặng Thùy Trâm"

Kỳ 2: Hai nửa cuộc đời của máy trưởng Phan Nhạn

Kỳ 3: Vũng Rô - đêm Giao thừa năm ấy

Kỳ 4: Nhớ mãi tên anh

Kỳ 5: Xứng đáng là người con của biển

Kỳ 6: Tên anh hóa thành bất tử

Kỳ 7: Thủy thủ tàu không số lên rừng... làm trang trại

Bài và ảnh: Phan Tiến Dũng