Do đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, nhất là cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp cần nhận diện đúng những biểu hiện “nhạt Đảng, phai Đoàn” ở một bộ phận TNVN hiện nay và chủ động phòng ngừa là đòi hỏi tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

“Nhạt Đảng” là quan niệm dùng để chỉ lập trường tư tưởng chính trị, cảm xúc, tình cảm, niềm tin của con người nói chung, đảng viên nói riêng đối với tổ chức đảng không còn được nguyên vẹn và mất dần niềm tin, tình cảm, phương hướng, thái đội chính trị đối với chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thanh niên trên địa bàn tỉnh Cà Mau tích cực tham gia hoạt động tái tạo nguồn lợi thủy sản. Ảnh: Báo Nhân Dân 

Thực chất, “nhạt Đảng” là sự mất dần đi niềm tin của đảng viên đối với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghị quyết, quy định của các tổ chức cơ sở đảng, không thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đảng viên, không có động lực phấn đấu vào đảng… Biểu hiện “nhạt Đảng” ở mỗi đảng viên diễn ra theo một quá trình, “tự diễn biến” - những suy nghĩ sai lệch, mơ hồ, thiếu tin tưởng vào tính khoa học, hiệu quả, thiết thực của những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, trực tiếp là từ tổ chức cơ sở đảng nơi đảng viên công tác, đến “tự chuyển hóa” - thờ ơ, coi thường, không có động lực, thiếu tôn trọng tập thể đảng viên và cấp ủy.

Những biểu hiện “nhạt Đảng” chỉ là hiện tượng, mang tính lịch sử, gắn với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nhất là khi đảng viên gặp khó khăn trong cuộc sống, trước những bế tắc trong công việc, tương lai, trong hoàn cảnh gia đình. Đặc biệt, những khó khăn đó bị giấu kín, tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy không nhận diện được, không có những biện pháp giúp đảng viên cách vượt qua nó thì sẽ biến suy nghĩ không đúng chuyển thành lời nói không đúng, việc làm không đúng, vi phạm những quy định đảng viên không được làm, thậm chí là đánh mất bản chất của người đảng viên, vô tình bán mình cho địch. Thực tiễn cuộc sống chứng minh, mỗi cá nhân có hoàn cảnh khác nhau, có những mối quan hệ khác nhau, có cách nghĩ, cách làm khác nhau. Song, “con đường đời” của bất cứ ai cũng có thăng, trầm, có vui, có buồn, hỉ, lộ, ái, ố, thậm chí có những thời điểm hoài nghi chính mình và “tự đánh mất mình một lần nữa”. Vì lẽ đó, biểu hiện “nhạt Đảng” có thể tồn tại trong chủ thể là đảng viên, đoàn viên thanh niên.

“Phai Đoàn” là quan niệm dùng để chỉ sự mờ dần đi vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và đoàn viên, thanh niên. Khi đó, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không giữ được vị trí, vai trò là đội “hậu bị” tin cậy của Đảng, không còn là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên; đoàn viên, thanh niên không giữ được mục tiêu, lý tưởng, tính năng động, xung kích, sáng tạo, cống hiến của tuổi trẻ. “Phai Đoàn” là hiện tượng diễn ra theo một thời gian tương đối dài, gắn với điều kiện lịch sử, hoàn cảnh nhất định.

Đối với con người cụ thể là đoàn viên, thanh niên, biểu hiện “phai Đoàn” diễn ra ở bên trong và bên ngoài. Bên trong là tâm trạng, cảm xúc, niềm tin, tình cảm, tri thức, ý chí. Mỗi đoàn viên, thanh niên trong tâm trạng, cảm xúc, tình cảm bị phai mờ, bị nhạt đi trong mối quan hệ với tổ chức, từ thấp, đến cao, đến Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, dẫn đến không có xu hướng, động cơ học tập, nghiên cứu, công tác, không có ý chí phấn đấu, xung khích, sáng tạo, không phát huy được vai trò của tuổi trẻ. Biểu hiện bên ngoài là động cơ, xu hướng, tính hiệu quả trong tham gia thực tiễn hoạt động công tác Đoàn và phong trào thanh niên. Ở đó, đoàn viên, thanh niên không có nhu cầu tham gia sinh hoạt, công tác, không mặn mà với mục tiêu, nghị quyết, chương trình hành động của Đoàn, có tham gia hoạt động thì cũng chỉ là hình thức bắt buộc, tính hiệu quả thực tiễn công tác đoàn và phong trào thanh niên rất hạn chế, và không có động cơ phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy, biểu hiện “nhạt Đảng, phai Đoàn” ở con người cụ thể là đoàn viên thanh niên mang tính lịch sử cụ thể, chỉ là hiện tượng, không phải là bản chất và có nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất định; làm cho đoàn viên, thanh niên đánh mất tính năng động, xung kích, sáng tạo, nhiệt huyết của tuổi trẻ, và mất động lực, nhu cầu phấn đấu vươn lên, động lực trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; dẫn đến hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh niên chỉ là “hình thức”, tổ chức đoàn mất vị trí, vai trò, không còn là “đội hậu bị” tin cậy của Đảng.

Trong mọi giai đoạn cách mạng, TNVN luôn giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là “rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng vị trí, vai trò của thanh niên; Người cho rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do các thanh niên…”[1]; “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng”[2]

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên và đặc biệt chú trọng đến công tác thanh niên. Trong các văn bản về công tác thanh niên, Đảng, Nhà nước đều xác định thanh niên là lực lượng xung kích của cách mạng, lực lượng kế thừa, tiếp nối, phát huy thành quả cách mạng và là tương lai của nước nhà[3]; đồng thời, đã ban hành nhiều văn bản xoay quanh vấn đề công tác thanh niên[4]. Đặc biệt, ngày 16-6-2020, Quốc hội khóa 14 ban hành Luật Thanh niên, khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của thanh niên và công tác thanh niên; trong đó, khoản 1, Điều 4, Chương I của Luật khẳng định “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, xung kích, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”… Nhìn chung, Đảng, Nhà nước luôn nhất quán quan điểm, luôn đặt niềm tin đối với thanh niên và luôn quan tâm lãnh đạo, chăm lo công tác thanh niên.

Trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, TNVN luôn phát huy được vị trí, vai trò của mình, là biểu tượng về sự trẻ trung, mạnh mẽ, có nhiều hoài bão, ham hiểu biết, nhạy cảm, sáng tạo, ưa thích cái mới, cái đẹp và tiến bộ, xứng đáng là lực lượng xung kích, sáng tạo, đi đầu và là tương lai của nước nhà; đóng góp to lớn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Có thể khẳng định, phần lớn TNVN đều có nhận thức chính trị đúng đắn, sống có ý thức, quyết tâm cống hiến, không ngại khó khăn, gian khổ, sống có lý tưởng, hoài bão, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, xứng đáng với vị trí, vai trò của mình, và có rất nhiều tấm gương tuổi trẻ xung kích, sáng tạo, đi đầu trong một số lĩnh vực, có đóng góp không nhỏ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một bộ phận TNVN chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của cách mạng, còn hạn chế, thiếu sót. Bên cạnh những hạn được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) chỉ ra: Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hoá dân tộc… thì hiện nay, có một bộ phận TNVN nhận thức về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới chưa sâu sắc; nhận diện về đối tượng, đối tác còn giản đơn; phẩm chất đạo đức, nếp sống văn hoá có thời điểm còn hạn chế; còn có biểu hiện chạy theo lối sống thực dụng, tìm cách thu vén lợi ích cá nhân, không quan tâm chăm lo tới lợi ích của đơn vị và xã hội; có thời điểm có biểu hiện giảm sút niềm tin, lý tưởng cách mạng, thờ ơ với sự biến đổi của thời cuộc, thiếu niềm tin vào cương lĩnh, điều lệ, chủ trương, nghị quyết của Đảng, Đoàn; chủ nghĩa bình quân, phấn đấu cầm chừng, ngại rèn luyện, thiếu nhiệt huyết, không muốn tham gia các hoạt động công tác Đoàn và phong trào thanh niên, lý tưởng phấn đấu vào Đảng chưa cao; chưa tự giác chấp hành pháp luật, vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, TNVN nói riêng.

Những hạn chế trên là những biểu hiện “nhạt Đảng, phai Đoàn”, là sự biến hình của biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nhận thức và hành động của một bộ phận TNVN và những biểu hiện này làm cho một bộ phận này rơi vào các trạng thái: Thờ ơ với chính trị, mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng; động cơ phấn đấu thấp; nhận thức mơ hồ, lệch lạc; coi thường Điều lệ Đảng, Đoàn, pháp luật của Nhà nước và các quy định của các tổ chức, địa phương, dễ vi phạm pháp luật, kỷ luật; Không hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ của thanh niên…

Biểu hiện “nhạt Đảng, phai Đoàn” ở một một bộ phận TNVN hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là cơ bản, quyết định. Song, biểu hiện đó không đồng hành cùng thời gian của chủ thể, nó tồn tại theo từng thời điểm, từng giai đoạn, hoàn cảnh, tính chất nhiệm vụ cụ thể và thông qua các giai đoạn từ mầm mống, chuyển hóa trong nhận thức đến hành động cụ thể. Những biểu hiện “nhạt Đảng, phai Đoàn” ở một bộ phận TNVN hiện nay chỉ là hiện tượng, không phải là bản chất, không kéo dài, nó sẽ mất đi khi các nguyên nhân cơ bản được các tổ chức, lực lượng nói chung, TNVN nói riêng nhận diện và khắc phục, nhất là khi cấp ủy, chính quyền các địa phương có chủ trương, chính sách thiết thực, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng thiết yếu, chính đáng của TNVN. Mặc dù biểu hiện “nhạt Đảng, phai Đoàn” diễn ra ở một một bộ phận TNVN hiện nay, theo từng thời điểm cụ thể, nhưng nó có sức “lây nhiễm” mạnh mẽ trong TNVN. Đặc biệt, trước sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, sự tác động của lối sống, văn hóa phương Tây, mặt trái của mạng xã hội và sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sự nắm bắt, quan tâm, động viên chưa thường xuyên của gia đình, việc tổ chức, duy trì hoạt động công tác đoàn, phong trào thanh niên và thực hiện các chính sách liên quan đến công tác thanh niên ở một số địa phương chưa thiết thực, chung chung, hình thức sẽ là điều kiện thúc đẩy biểu hiện “nhạt Đảng, phai Đoàn” ở một bộ phận TNVN “lây nhiễm” và “phát triển” mạnh mẽ trong bộ phận lớn của TNVN.

Nếu biểu hiện “Nhạt Đảng, phai Đoàn” ở một bộ phận TNVN tiếp tục “lây nhiễm” rộng rãi trong TNVN thì sẽ trở thành mối đe dọa đối với sự tồn vong của chế độ, là thách thức đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và là lực cản mạnh mẽ, kìm hãm Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình, giàu mạnh và hùng cường.

NGUYỄN PHÚ PHƯƠNG



[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2021, tập. 5, tr. 216.

[2] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2021, tập. 13, tr. 298.

[3] Như: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV khẳng định: “Tiền đồ rạng rỡ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nằm trong tay thanh niên, thiếu niên và nhi đồng”. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14-1-1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…, công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25-7-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) nhấn mạnh: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội…”…

[4] Như: Ngày 24-3-2015, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030; Ngày 16-6-2020, Quốc hội khoá 14 ban hành Luật số: 57/2020/QH14, Luật Thanh niên; Ngày 24-7-2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số: 1331/QĐ-TTg, quyết định ban hành Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030…