QĐND Online-“Chiến thắng Việt Bắc-Thu Đông 1947-vai trò căn cứ địa và bước ngoặt của cuộc kháng chiến” là nội dung của cuộc hội thảo nhân dịp cách đây 60, năm Bộ đội Cụ Hồ đã làm nên một chiến thắng lẫy lừng, trở thành niềm tự hào của cả dân tộc.

Mảnh đất địa linh, nhân kiệt
Việt Bắc là mảnh đất “Địa linh, nhân kiệt”, với tinh thần đoàn kết, gắn bó. Cuộc kháng chiến chống Pháp, đã được sự ủng hộ của mảnh đất, con người Việt Bắc kiên cường, dũng cảm. Trong bài tham luận, Thiếu tướng Nguyễn Văn Đạo nhấn mạnh: Nhân dân các dân tộc Việt Bắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng trao sứ mệnh lịch sử: “Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi”. Nhà nước dân chủ cộng hoà non trẻ, với bao khó khăn, thách thức của giặc ngoại xâm, giặc dốt… lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Việt Bắc, cùng nhân dân cả nước, đã đánh bại mưu đồ đen tối và hành động thâm hiểm của thực dân Pháp tiến công lên Việt Bắc Thu Đông 1947, lập nên kỳ tích vẻ vang, bảo vệ vững chắc căn cứ địa, bảo toàn và không ngừng phát triển lực lượng vũ trang, đưa cuộc kháng chiến sang một giai đoạn mới.

Nhà thơ Tố Hữu từng viết, “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, nhưng có lẽ rừng chưa quan trọng bằng lòng dân. Bộ đội ta đã được những người con của núi rừng Việt Bắc, chở che, bảo vệ, cùng chính nhờ “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” mà đã góp phần không nhỏ trong chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947. Đại tá Lê Kim, đại biểu của hội thảo nhận định: “Bất kỳ một công cuộc đổi mới nào, dù nước giàu, hay nghèo, điều cốt lõi là phải xây dựng được lòng dân, thì dù kẻ thù có mạnh đến đâu cũng không thể chiến thắng”.

Đặc biệt, một số bài tham luận của Trung tướng Phạm Hồng Thanh, Trung tướng Phạm Xuân Thệ, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ… đã mô tả cuộc chiến đấu mưu trí, một số trận đánh nổi bật, đạt hiệu suất cao trên các mặt trận: Cao Bằng-Đường số 4; Bắc Cạn-Đường số 3; sông Lô-Đường số 2, sự phối hợp, tác chiến giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích với nhân dân các dân tộc Việt Bắc. Từ các cụ phụ lão đến chị em phụ nữ, các cháu thiếu nhi đều tham gia đánh địch bằng nhiều hình thức, với mọi vũ khí trong tay. Các bài tham luận này nêu bật thế trận của cuộc chiến tranh nhân dân đã được xây dựng, triển khai vững chắc, rộng khắp trên khắp các tỉnh, huyện trên địa bàn Việt Bắc, khiến kẻ địch đi đến đâu cũng bị đón đánh, bị phục kích, bị tiêu diệt...

Bước phát triển mới về nghệ thuật quân sự

Nhìn chung, các bài tham luận tại hội thảo đều tập trung phân tích âm mưu, kế hoạch chiến lược của thực dân Pháp muốn có một hành động quân sự quy mô lớn, mang tính quyết định hòng sớm kết thúc chiến tranh. Đặc biệt, kế hoạch tiến công lên Việt Bắc của địch là nhằm chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến, đánh quỵ chủ lực ta, phá huỷ căn cứ địa và tiềm lực của cuộc kháng chiến… Tuy nhiên, dưới dự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu và hành động của địch. Đảng ta đã kịp thời chỉ đạo các lực lượng phối hợp mở chiến dịch phản công. Trong điều kiện địch tấn công ồ ạt vừa đông, vừa mạnh, quân đội ta không tập trung đánh lớn mà đánh nhỏ lẻ, đánh du kích, lấy phục kích là chủ yếu, đánh trên sông, trên cạn… đủ mọi địa hình, đánh cho địch phải khiếp sợ, phải tháo lui.

Từ sau chiến dịch hào hùng đó, quân đội ta giành quyền chủ động hoàn toàn. Bác Trần Trọng Trung, một cán bộ đã từng tham gia chiến dịch Thu Đông năm 1947, nhớ lại: “Đầu tháng 11 năm 1947, trong cuộc họp cán bộ tham mưu, tại một hang núi của trạm xá, đồng chí Võ Nguyên Giáp có nói: thời kỳ bị động bất ngờ đã qua, ta đã chọn hướng đúng, triển khai lực lượng đúng, bố trí binh lực đúng, chọn cách đánh đúng, thì các đồng chí tin rằng chỉ trong vài ba tuần cục diện chiến trường sẽ thay đổi, thay đổi rất nhanh, mà thực tế đã chứng minh điều đó...”

Chiến thắng Việt Bắc đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của các lực lượng vũ trang, sự thành công trong chỉ đạo chiến lược và bước phát triển mới về nghệ thuật quân sự. Các bài viết của Thiếu tướng Đinh Thế Hoà, Thiếu tướng Nguyễn Như Khánh, Thiếu tướng Vũ Thanh Lâm… đã đề cập đến truyền thống quân sự của ông cha được kế thừa sâu sắc, vận dụng hiệu quả vào các trận chiến đấu trong chiến dịch. Những mưu sách, chiến lược đó đã được vận dụng hiệu quả, làm nên chiến thắng vẻ vang, là niềm tự hào của cả dân tộc.

Không tự hào sao được khi đội quân chỉ mới 3 tuổi mà đã đánh bại được cả cuộc hành binh tới 1,5 vạn quân, một đơn vị quân đội nhà nghề có hàng trăm năm lịch sử chiến tranh xâm lược. Đó là chiến thắng rất lớn, lẫy lừng và cũng là niềm khích lệ to lớn của cả dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

Hồng Anh