Nếu tin vào những người tự cho mình là “các nhà dân chủ Việt Nam”, dường như ở Việt Nam đang diễn ra một cuộc “cướp bóc” trắng trợn trên quy mô lớn mồ hôi, công sức của người dân lao động từ phía những người lãnh đạo cộng sản núp dưới bóng mô hình phát triển “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Họ lớn tiếng cảnh báo rằng, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chẳng phải là phát kiến gì mới mẻ mà thực chất là “một nền kinh tế tư bản hoang dã đem đến sự bần cùng cho tuyệt đại đa số người dân…”.

Không khó khăn gì để có thể nhận thấy đây là cú đánh ngầm khôn khéo, đòn tấn công gián tiếp nhằm vào Chủ nghĩa xã hội dưới một vỏ áo khác mà các thế lực chống đối thường xuyên tung ra. Mục tiêu của nó không phải điều gì khác ngoài việc bác bỏ mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam mà Đảng ta đã lựa chọn, làm tăng sự nghi ngờ, làm xói mòn niềm tin vào Chủ nghĩa xã hội, từ đó mà từng bước phủ nhận con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của đất nước ta, dân tộc ta.

Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Gần đây nhất, tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục nhất trí quan điểm: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Cách làm của họ là cố tình cường điệu hóa nguy cơ từ kinh tế thị trường, nhấn một chiều đến những mặt trái của nó, đến những gì khắc nghiệt và kể cả sự hoang dã mà nó từng thể hiện dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, trong khi lại giả vờ bỏ qua vế sau rất quan trọng xác định bản chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, làm cho nó khác cơ bản với kinh tế thị trường dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, là định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thực ra, kinh tế thị trường là phát minh lớn của loài người trong lĩnh vực tổ chức và sản xuất và trao đổi. Bất cứ ở đâu, trong nền kinh tế có sản xuất và trao đổi hàng hóa trên các nguyên tắc của thị trường và được quyết định bởi quan hệ cung-cầu của thị trường, thì ở đó kinh tế thị trường tồn tại và phát triển. Chính vì thế, kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại, chứ đâu phải là “của riêng”, là thứ mang bản chất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Trên thực tế, trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hóa, giai đoạn thấp của của kinh tế thị trường, đã từng tồn tại và phục vụ cho chế độ nô lệ và chế độ phong kiến. Đến chế độ tư bản, nhất là trong giai đoạn phát triển hiện đại, kinh tế thị trường phát triển đến trình độ rất cao và gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa tư bản tới mức người ta tưởng lầm nó là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên về bản chất, kinh tế thị trường không đồng nhất, không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản. Thực tế cho thấy kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường có thể tồn tại và phát triển ở các chế độ xã hội khác nhau, cả trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế thị trường không đồng nghĩa với việc tất yếu sẽ tự trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa.

Những nhận thức trên được từng bước hình thành trong quá trình xác định đường lối Đổi mới ở nước ta. Ngay từ những năm 1979-1986, Đảng ta đã có những tìm tòi, thử nghiệm để cái cách theo hướng thị trường để có bước nhảy vọt về tư duy kinh tế ở Đại hội VI khi từ bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, để chuyển sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Năm 1991, Cương lĩnh của Đảng khẳng định “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta đưa ra quan niệm mới rất quan trọng “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng".

Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Gần đây nhất, tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục nhất trí quan điểm: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Thực tiễn 20 năm Đổi mới đã cho thấy kinh tế thị trường đã tạo ra một động lực to lớn góp phần giải phóng sức sản xuất, cho phép khai thác có hiệu quả cao tiềm lực về vốn, về tay nghề, về tư liệu sản xuất… của mỗi cá nhân trong xã hội để kích thích năng lực nội sinh, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời xóa dần đi những thói xấu của thời bao cấp trì trệ, thụ động, dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ vào “bầu sữa mẹ” nhà nước. Điều kỳ diệu mang tên Việt Nam gắn với tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn thuộc nhóm hàng đầu thế giới trong hàng thập kỷ, là những cú đột phá hội nhập đưa Việt Nam hòa vào dòng chảy chung của nền kinh tế thế giới, trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài, là những bằng chứng cho thấy sự đúng đắn trong chính sách của Đảng khai thác “đòn bẩy” kinh tế thị trường. Chỉ có những người cố tình không chịu hiểu thì mới không nhận ra sự thật rõ ràng đó.

Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam khác hoàn toàn với bản chất của kinh tế thị trường ở nhiều nước khác (ảnh: Internet).

Có một thực tế mà chúng ta không phủ nhận là kinh tế thị trường cũng đem đến nhiều tiêu cực. Với tính tự phát nếu không được kiểm soát, nó là môi trường thuận lợi làm tăng lên tính vị kỷ trong mỗi cá nhân, gây ra đối kháng giữa các tầng lớp (lao động, chủ xí nghiệp), làm xã hội phân hoá gay gắt hơn. Nhiều giá trị đạo đức trong xã hội có nguy cơ bị xói mòn với sự lên ngôi của đồng tiền, của chủ nghĩa thực dụng. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc sự “hoang dã” mà nền kinh tế thị trường đang hoành hành ở Việt Nam như lời cáo buộc của “các nhà dân chủ”. Vì sao lại như vậy? Làm sao Việt Nam có thể tránh được những mặt trái đi liền với kinh tế thị trường.

Trong định hướng phát triển của mình, Đảng ta đã xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam khác hoàn toàn với bản chất của kinh tế thị trường ở nhiều nước khác. Đây là nền kinh tế được xây dựng ở một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mà mục tiêu cao nhất là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Chúng ta lựa chọn phát triển kinh tế thị trường không phải là để đi theo hay để xã hội tự trượt theo con đường tư bản chủ nghĩa như “các nhà dân chủ” cảnh báo, mà là vận dụng mặt tích cực của kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội theo nhận thức đổi mới. Thực chất ở đây là Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo sử dụng kinh tế thị trường để đẩy nhanh sự phát triển sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa-hiện đại hóa, xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội.

Không những xác định phương hướng và mục tiêu của phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, Đảng ta còn khẳng định rõ chủ trương thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển và trong suốt quá trình phát triển. Chúng ta không chọn sự tăng trưởng theo kiểu đánh đổi giữa tốc độ và công bằng, không bao giờ chấp nhận hy sinh tiến bộ xã hội chỉ vì để đạt tăng trưởng kinh tế cao, thờ ơ với nguy cơ phân hóa xã hội đến mức gay gắt, với sự hoành hành của các tệ nạn xã hội... mà sự vận hành của nền kinh tế thị trường có thể tạo ra. Chính “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong kinh tế thị trường, điều mà “các nhà dân chủ” cố tình bỏ qua, đã giúp Việt Nam giảm tối đa những mặt trái trong quá trình phát triển.

Những gì diễn ra ở Việt Nam trong những năm Đổi mới cho thấy những chủ trương lớn trên của Đảng và Nhà nước không phải chỉ tồn tại trên giấy mà đã được khẳng định bằng thực tế sinh động được cả thế giới công nhận trong nỗ lực thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, Đảng và Chính phủ luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi liền với công bằng và tiến bộ xã hội. Nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng sâu vùng xa, trợ giúp người nghèo, bảo hiểm y tế cho người dân…đã được thực hiện. Mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thông qua khoản đầu tư từ 60 nghìn đến 62 nghìn tỷ đồng trong năm năm tới (2006 - 2010) để tạo bước đột phá trong công tác xóa đói, giảm nghèo.

Nỗ lực bền bỉ, có định hướng rõ ràng đã đưa đến kết quả là theo chuẩn nghèo của quốc tế, trong vòng 2 thập kỷ qua, Việt Nam đã giảm 50% số người nghèo, đạt được mục tiêu số 1 trong các mục tiêu thiên niên kỷ mà LHQ đề ra trước thời hạn năm 2015. Chính vì thế mà ông G. Rai-ân, nguyên Trưởng đại diện Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, đã nhận xét rằng: “Hoàn toàn không quá lời khi kết luận Đổi mới đã làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt cuộc sống kinh tế ở Việt Nam và giờ đây toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách, đổi mới ở Việt Nam như là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đương đại”. Đó là bức tranh sống động nhất, chân thực nhất về nỗ lực vì con người của Việt Nam với đầy tinh thần nhân ái, là bằng chứng rõ ràng cho thấy Việt Nam luôn đặt mục tiêu vì dân, do dân, lấy cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân làm cái đích phấn đấu của mình.

Số người thoát khỏi đói nghèo ở Việt Nam cao gấp đôi mức trung bình trong khu vực (ảnh: Internet).

Không chỉ là tấm gướng sáng về xoá đói giảm nghèo, Việt Nam còn nhận được sự ca ngợi của cộng đồng quốc tế về thành tích phát triển con người và nâng cao chất lượng sống cho người dân. Báo cáo về tình hình phát triển con người năm 2006 mà UNDP vừa công bố trong tháng 11 vừa rồi cho thấy Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam, chỉ số đánh giá dựa trên các tiêu chí về tuổi thọ, thu nhập bình quân tính theo đầu người, trình độ học vấn, tỷ lệ nhập học, tỷ lệ biết chữ..., đã liên tục tăng trong gần hai thập kỷ qua kể từ năm 1990, cho thấy sự phát triển kinh tế nhanh chóng ở Việt Nam đã chuyển hóa vào chất lượng sống của đa số người dân Việt Nam, chứ không phải chỉ đổ vào túi những người “có chức, có quyền” như lời của những kẻ chống đối. Các tiêu chí như tuổi thọ trung bình đã tăng từ 68,6 trong báo cáo năm 2003 lên 69 tuổi năm 2004, 70,5 tuổi năm 2005 và 70,8 năm 2006; thu nhập bình quân tính theo đầu người tăng từ 2300 USD năm 2004 lên 2490 USD năm 2005 và bây giờ là 2745 USD (đây là mức thu nhập bình quân đầu người tính theo sức mua).

Một điều đáng nói nữa mà báo cáo của UNDP nhấn mạnh là tuy thu nhập bình quân tính theo đầu người của Việt Nam chưa bằng một nửa so với con số 6303 USD của An-giê-ri nhưng chỉ số HDI của Việt Nam chỉ thấp hơn An-giê-ri có 7 bậc. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam cũng thấp hơn nhiều nước như Nam Phi, Ai Cập, Ấn Độ…nhưng vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng theo chỉ số HDI lại cao hơn. Đây là bằng chứng rõ ràng khẳng định sự quan tâm của Việt Nam đối với con người trong quá trình phát triển. Thành công của Việt Nam ấn tượng đến mức tờ tạp chí nổi tiếng Economist xuất bản tại Luân Đôn đã ca ngợi “Mặc dù Việt Nam vẫn còn là một trong những nước nghèo ở châu Á, nhưng sự phát triển của Việt Nam mang tính “nhân bản” cao bởi số người thoát khỏi đói nghèo cao gấp đôi mức trung bình trong khu vực”.

Tất nhiên, cũng có một số đảng viên do tha hoá đạo đức và nhân cách suy đồi đã lạm dụng vị trí chính trị, trọng trách mà Đảng giao phó, để trục lợi, vơ vét, bóc lột sức lao động của nhân dân gây tổn hại đến uy tín của Đảng. Nhưng đó là những hiện tượng xấu đơn lẻ không thể đánh đồng với bản chất của một Đảng, thành vấn đề tồn tại như hệ quả tất yếu từ mô hình phát triển mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn. Trên thực tế, Đảng ta đang tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết để loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất đó. Nỗ lực của Đảng đang được cả xã hội, quần chúng nhân dân ủng hộ và đánh giá cao.

Thực tế đó đã bác bỏ những lời cáo buộc của những người tự xưng là “các nhà dân chủ”. Hành động của họ không phải là vì những mục tiêu mà họ đang lớn tiếng quảng bá, mà là sự bịa đặt, cố tình phủ nhận thực tế nhằm đưa Việt Nam rời bỏ con đường XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Tuy nhiên, với động cơ xấu, lời cáo buộc của họ chỉ như tiếng vọng lạc lõng, dễ dàng bị át đi trong dòng chảy sôi động của nhịp sống đất nước đang hướng tới mục tiêu ngày càng phồn vinh và công bằng cho mọi người dân đất Việt.

MẠNH TƯỜNG