“Đến hẹn lại lên”, cứ mỗi khi Việt Nam đứng ra đăng cai một sự kiện quốc tế quan trọng, mời bạn bè từ khắp thế giới đến nhà thì y như rằng lại có một nhúm người nào đó, tự xưng là “yêu nước”(?), làm cái công việc trái ngược với danh xưng đẹp đẽ đó, là lớn tiếng đưa ra những lời lẽ vu vạ đất nước mình! Lần Hội nghị APEC 14 này cũng vậy! Vẫn một nhúm người đã gửi thư ngỏ cho các nhà lãnh đạo APEC để bôi xấu đất nước. Một trong những lý lẽ mà họ đưa ra là “Việt Nam đang đàn áp khốc liệt các tôn giáo”(!). Vậy sự thật thế nào?
Sự nhất quán trong chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam
Sự thật không thể bác bỏ được là ngay từ những ngày đầu phôi thai của nền dân chủ cộng hòa, những người cộng sản Việt Nam đã coi tự do tôn giáo như là một trong những nguyên tắc cơ bản trong chính sách tôn giáo của mình!
 |
Một buổi lễ ở nhà thờ Phát Diệm (ảnh: Internet). |
Làm sao có thể hình dung được rằng chỉ đúng một ngày sau khi chính thức tuyên bố về nền độc lập của đất nước, khi mà cách mạng đang có trăm ngàn công việc phải lo, khi thù trong giặc ngoài đang rình rập, vậy mà trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày về sáu vấn đề cấp bách của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong đó xác lập luận đề có tính nguyên tắc là “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”.
Cần lưu ý rằng thuật ngữ “tín ngưỡng tự do” vào thời điểm ấy phải được hiểu là “tự do tôn giáo”, chứ không bó hẹp trong phạm vi “tự do ý thức”.
Luận đề này ngay một năm sau đó đã được ghi trong Hiến pháp năm 1946, ở điều 10, về quyền công dân.
Đến Hiến pháp năm 1959, quyền tự do tôn giáo của người dân được ghi rõ ràng hơn ở điều 26: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.
Điều 26 này tiếp tục có mặt trong Hiến pháp năm 1980 ở điều 68, có thêm nội dung “
không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách nhà nước”.
Trong Hiến pháp năm 1992, quyền tự do tôn giáo một lần nữa hiện diện ở điều 70 một cách rộng rãi, toàn diện hơn: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. |
Như vậy, tính nhất quán, có hệ thống trong việc bảo đảm tự do tôn giáo ở Việt Nam luôn được thể hiện trong Hiến pháp, bộ luật cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trước đây và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay.
Đó là một sự thật không thể chối cãi.
Nó tiếp tục được thể chế hóa trong các văn bản dưới Hiến pháp.
Chỉ chưa đầy ba tuần lễ sau ngày độc lập, ngày 20-9-1945, một trong những sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước mới đã nói đến việc tôn trọng, bảo vệ “đền chùa,lăng tẩm, nhà thờ, tất cả những nơi có tính cách tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào”. Hai tháng sau, ngày 23-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 65, bảo tồn cổ di tích; năm 1949 ký sắc lệnh miễn thuế đất và hoa màu cho các tổ chức tôn giáo...
Việc thể chế hóa chính sách tôn giáo được thực hiện một cách nhất quán. Năm 1964, trong Thông tư số 60-TTg, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa khẳng định: “Đối với đồng bào có tôn giáo, tự do tín ngưỡng là một yêu cầu chính đáng. Quyền tự do tín ngưỡng gắn liền với nền độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân...Đảng và Chính phủ coi tự do tín ngưỡng là nguyện vọng tha thiết của đồng bào có đạo, bởi vậy đi đôi với việc cải thiện đời sống cho nhân dân, Đảng và Chính phủ cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào các tôn giáo”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đoàn kết đồng bào tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc; đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân với Tổ quốc, sống “tốt đời đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo.
Việc bảo đảm tự do tôn giáo và đoàn kết dân tộc đã trở thành một nguyên tắc hàng đầu mà những người cộng sản Việt Nam luôn hướng tới.
Đó là một sự thật không thể chối cãi.
Tiếng nói của những con số
Nhưng những điều được ghi trong Hiến pháp, trong các văn bản luật lệ, chính sách sẽ chỉ là những con chữ khô cứng nếu như chúng không được đưa vào đời sống xanh tươi.
Mà để kiểm nghiệm về sự thật tự do tôn giáo ở Việt Nam, không có gì thuyết phục hơn là dựa trên các chuẩn mực: việc đào tạo những người lãnh đạo, hướng dẫn tôn giáo như các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo; việc phố biến kinh sách tôn giáo; việc xây dựng các cơ sở thờ tự như nhà thờ, chùa, thánh thất, thánh đường...
 |
Các nhà sư trong một buổi lễ ở chùa Đậu (ảnh: Internet). |
Năm 1975, số lượng các nhà tu hành Phật giáo có khoảng 15.000 tăng ni. Sau gần 30 năm (đến tháng 10-2002), số lượng tăng ni đã tăng hơn gấp đôi, lên hơn 33.000 người, trong đó có hàng trăm vị có bằng tiến sỹ, thạc sỹ, hàng ngàn vị tốt nghiệp Đại học Phật giáo.
Về Thiên Chúa giáo, trong 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, Vatican chỉ bổ nhiệm được 4 giám mục người Việt Nam. Trong 30 năm chiến tranh (1945-1975), Vatican bổ nhiệm trên cả hai miền Nam Bắc 42 giám mục. Trong gần 30 năm sau hòa bình, số giám mục được bổ nhiệm cũng là 33 người. Số linh mục được phong trước năm 1975 là 1.178 người, từ năm 1975 đến năm 2002 cũng là 1.222 người.
Số lượng kinh sách được xuất bản ở Việt Nam rất lớn: chỉ trong 2 năm 2001-2002, riêng Nhà xuất bản Tôn giáo đã xuất bản 400 đầu sách tôn giáo với hàng chục vạn bản; tới năm 2006, số lượng ấn phẩm trong lĩnh vực này chắc chắn lớn hơn nhiều.
Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế năm 2006 của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã cho biết:“Nhà xuất bản Tôn giáo đã in ấn 250.000 bản kinh phật Hòa Hảo cùng 100.000 bộ những lời giảng và tiên tri của nhà sáng lập; Hiệp hội Hồi giáo cho biết họ được in đầy đủ kinh Cô-ran vào năm 2000 để phân phát cho tất cả tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam...Kinh thánh được in bằng tiếng Việt, tiếng Trung Quốc và tiếng Anh.. ”. |
Trên cả nước Việt Nam có tới 21.000 cơ sở thờ tự của các tôn giáo lớn, trong đó có 14.000 cơ sở thờ tự của Phật giáo, hơn 5.400 nhà nguyện của Thiên Chúa giáo, 440 nhà thờ Tin lành, 500 thánh thất Cao Đài, chưa kể hàng vạn nơi thờ tự của các tín ngưỡng tâm linh khác. Các cơ sở thờ tự được xây dựng khang trang quy mô, bảo đảm cho những buổi lễ hội đông đến hàng chục vạn người như lễ hội La Vang...
Nếu như trong thập niên 1980 chỉ có số ít người đi dự các buổi lễ ở nhà thờ Công giáo và Tin lành thì nay chật cứng người trong các buổi lễ. Năm 2001, Giáo hội Tin lành miền Nam Việt Nam lần đầu tiên được chính thức công nhận. Các ngôi chùa mới xuất hiện trên khắp đất nước.
Phi-líp Tay-lo, một nhà nhân học tại Đại học quốc gia Ô-xtrây-li-a, một chuyên gia về tôn giáo Việt Nam, đã nhận định: “Nếu xét về số lượng tín đồ và sự đa dạng tín ngưỡng thì ngày nay, tôn giáo đang phát triển ở Việt Nam”.
Đấy là sự thật qua những con số và qua con mắt của một học giả nước ngoài.
Những người Mỹ nói
Người Mỹ có thói quen đưa ra các báo cáo về tình hình dân chủ, nhân quyền hay tôn giáo trên khắp thế giới. Họ cũng có một chức danh được gọi là Đại sứ lưu động về tôn giáo, thuộc Bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Người đảm nhiệm chức vụ này hiện là ông Giôn Han-phóoc, trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến 2006 đã thực hiện tới 6 chuyến thăm Việt Nam để tìm hiểu, đi tới những vùng mà ông muốn tới để tận mắt chứng kiến thực trạng về tự do tôn giáo.
 |
Chùa Dâu, một trong những ngôi chùa tiêu biểu cho đạo Phật ở Việt Nam (ảnh: Internet). |
Đầu tháng 3-2006, đại sứ Giôn Han-phóoc có chuyến thăm một số vùng của Việt Nam. Sau khi kết thúc chuyến đi, trong buổi gặp Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, Uỷ viên trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ công an, đại sứ Giôn Han-phóoc đã đánh giá cao những tiến bộ trong hoạt động tôn giáo của Việt Nam, đặc biệt là sau khi Chính phủ Việt Nam ban hành Pháp lệnh tôn giáo và Chỉ thị 01 về hoạt động tôn giáo tại Việt Nam.Trước đó, đại sứ Giôn Han-phóoc đã gặp Tổng thống G.Bu-sơ để báo cáo về những tiến bộ trong sinh hoạt tôn giáo của Việt Nam.
Đến trung tuần tháng 8-2006, vẫn ngài đại sứ Giôn Han-phóoc thực hiện chuyến thăm Việt Nam và lại một lần nữa, ông có cuộc gặp Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng. Trong cuộc gặp này, đại sứ Giôn Han-phóoc cho biết đã đến lúc cần đẩy nhanh quá trình nhằm sớm đưa Việt Nam ra khỏi danh sách “
các nước cần đặc biệt quan tâm” (CPC) về tôn giáo của Hoa Kỳ và vấn đề tự do tôn giáo không còn là rào cản đối với việc thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) đối với Việt Nam.
Trước đó hơn một năm, đầu tháng 5-2005, Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Rô-bớt Dô-ê-lích đã có chuyến thăm công tác tại Việt Nam. Trong cuộc gặp gỡ với báo giới, Thứ trưởng R.Dô-ê-lích nói: “Chúng tôi đánh giá rất cao những bước đi của Việt Nam trong lĩnh vực tự do tôn giáo và Việt Nam là nước duy nhất đạt được thỏa thuận với Hoa Kỳ trong lĩnh vực này...Tôi cảm nhận rằng Việt Nam sẽ ngày càng có ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á. Tôi cũng rất hài lòng khi được biết Việt Nam sẽ là nước chủ nhà của hội nghị APEC”. |
Còn trong Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế năm 2006 của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ (mà những người soạn thảo không phải lúc nào cũng có được cái nhìn khách quan, không định kiến), phần về Việt Nam, đã có nhận định: “Trong thời gian báo cáo này tường trình, Chính phủ (Việt Nam) tiếp tục giải quyết nhiều quan ngại về tự do tôn giáo do Hoa Kỳ và các quốc gia khác nêu ra”.
Sự thật về tự do tôn giáo ở Việt Nam đã có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với cộng đồng quốc tế, khiến cho ngay cả những người trước đây có một cái nhìn chưa chính xác, khách quan về thực tế ở Việt Nam, nay cũng phải nhìn nhận lại cho công bằng, thỏa đáng. Sáng 14-11-2006, ngay trước thềm hội nghị các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC diễn ra ở Hà Nội, Bộ ngoại giao Mỹ đã chính thức thông báo đưa Việt Nam ra khỏi danh sách “các nước cần đặc biệt quan tâm”(CPC) về tôn giáo vì “đã có những cải thiện to lớn theo hướng thúc đẩy tự do tín ngưỡng”. Phát biểu khi công bố quyết định trên, Đại sứ lưu động về tôn giáo của Hoa Kỳ Giôn Han-phoóc nói: “Quyết định của chúng tôi không giữ Việt Nam trong danh sách CPC là một trong những thông báo có ý nghĩa nhất mà chúng tôi đạt được trong năm nay”. Ông Giôn Han-phoóc cũng cho biết Việt Nam là quốc gia đầu tiên mà Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra khỏi danh sách CPC trong năm 2006.
Đây là một cái tát giáng vào những kẻ vẫn lu loa về cái gọi là “đàn áp tôn giáo” ở Việt Nam. Nó cho thấy là một khi sự thật lên tiếng thì không một lời lẽ giả trá nào có thể đứng vững được!
Bình an dưới thế
Không có một đất nước nào là toàn hảo, trong lĩnh vực tôn giáo hay bất cứ lĩnh vực nào khác cũng vậy.
Ngay cả một nền văn minh phương Tây hàng trăm năm, đầu tháng 2-2006 cũng còn phải rung chuyển trước cơn giận dữ Hồi giáo, buộc phải xem xét lại các tiêu chí ngôn luận của mình khi một số tờ báo cho đăng những bức tranh biếm họa về nhà tiên tri Hồi giáo Mô-ha-mát...
 |
Thánh địa La Vang, nơi để tổ chức những lễ hội đông tới hàng vạn người ở Quảng Trị (ảnh: Internet). |
Trong quá trình phát triển chung của xã hội, quyền tự do tôn giáo cũng ngày càng được hoàn thiện. Những người yêu nước Việt Nam, dù có đạo hay không có đạo, đều gắn bó với nhau trong mỗi hành trình của đất nước, hòa mình vào dân tộc bằng trách nhiệm công dân nghiêm túc và chân thành.
Còn những kẻ trá ngụy, hành động trái ngược với tinh thần của người con dân yêu nước, tung ra những luận điệu dối trá về tự do tôn giáo ở Việt Nam, chính là những kẻ đã từng được Đức Chúa Giê-xu đề cập đến trong khi rao giảng trên núi xứ Ga-li-lê: “Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cây đà trong mắt mình? Sao ngươi dám nói với anh em rằng: để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh, mà chính ngươi có cây đà trong mắt mình? Hỡi kẻ giả hình! Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình đi, rồi mới thấy rõ mà lấy cái rác ra khỏi mắt anh em mình được”.
Nhiều năm trước, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình đã từng viết: “là Công giáo, chúng ta gặp Chúa trong cuộc sống của dân tộc. Và Đức tin không góp phần xây dựng trần thế là Đức tin chết”. Điều này không chỉ đúng với đạo Cơ đốc, mà còn đúng với tất cả các tôn giáo khác.
Hoạt động tôn giáo được phát triển tự do ở Việt Nam, đó là một sự thật không gì có thể bác bỏ được.
Điều thú vị là trong chuyến thăm chính thức Việt Nam và dự Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC sắp tới, Tổng thống Mỹ G.Bu-sơ đã đề đạt ý nguyện đi dự lễ ở một Nhà thờ bất kỳ tại Hà Nội và ông sẽ được toại nguyện. Chắc rằng ở đó, trong tiếng chuông vọng xuống từ thinh không, Tổng thống Mỹ, một tín đồ Cơ đốc giáo, sẽ cảm nhận đầy đủ sự bình an dưới thế, ở nơi mảnh đất năng động và mến khách mang tên Việt Nam.
VĂN YÊN