Dưới thời phong kiến, Hải Vân sơn là vùng ranh giới giữa phủ Thừa Thiên và tỉnh Quảng Nam, là một nhánh núi nằm ở điểm tận cùng của dãy Trường Sơn bắc lan ra tận biển Đông. Từ trên đỉnh núi Hải Vân (ở độ cao 724m), nếu nhìn về phía đông và phía nam có thể bao quát được vùng biển Nam Ô, vũng Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và một phần tỉnh Quảng Nam; còn nếu quay hướng đông bắc và tây bắc thì quan sát được cả vùng biển Đông rộng lớn, gồm đầm Lập An (An Cư), cửa Cảnh Dương, cửa Tư Hiền và một phần đất của Thừa Thiên-Huế. Đây là nơi núi cao, vực sâu sát ngay bờ biển, rừng cây rậm rạp, việc đi lại hết sức khó khăn, chỉ dựa vào con đường đèo ven biển hết sức cheo leo và hiểm trở ở sườn phía tây nam Hải Vân sơn với độ cao 500m. Thêm vào đó, do các dải núi len ra ngoài biển nên thềm lục địa ở đây co hẹp lại, bờ biển có nhiều rạn đá ngầm, giao thông trên biển ở đoạn này buộc phải chạy sát vào chân núi, cạnh con đường đèo. Những đặc điểm tự nhiên đó đã khiến Hải Vân sơn trở thành hiểm địa, một vị trí chiến lược quân sự quan trọng.

Đầu thế kỷ thứ 19, sau khi thiết lập vương triều Nguyễn, thấy Huế là “nơi miền núi, miền biển đều họp về, đứng giữa miền Nam và miền Bắc”, vua Gia Long đã chọn Huế làm kinh đô. Hải Vân sơn được triều đình nhà Nguyễn xây đồn, đặt ải nhằm bảo vệ kinh đô về hướng nam. Mùa xuân năm 1826, vua Minh Mạng cho xây cửa Hải Vân “Phía trước, sau đều đặt một cửa quan; ngạch trước viết: Hải Vân quan; ngạch sau viết 6 chữ: Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Hải Vân quan là một công trình cấp Nhà nước, do phủ Thừa Thiên và Quảng Nam cùng thuê dân xây cất. Cửa quan phía trước có chiều cao 6m, chiều ngang 6,84m, dày 6m, vòm cửa cao 4,32m và rộng 3,24m; phía nam cũng cao 6m, chiều ngang 7,24 m, song chỉ dày 4,4 m, còn vòm cửa cao và rộng y như cửa quan phía trước. Hai bên cửa quan đều xếp đá, xây tường, hai cửa trước sau đều liền nhau.

Với chức năng là một cửa ải kiểm soát việc ra vào kinh đô Huế ở mạn nam, Hải Vân quan do quân đội chủ lực của triều đình trực tiếp đóng giữ, dưới sự quản lý hoặc giám sát của Đề đốc kinh thành Huế hoặc Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Triều đình Huế đã phân quy trách nhiệm quản lý địa hạt cho hai địa phương có chung cửa ải: “Từ Hải Vân trở ra Bắc thuộc quản hạt Thừa Thiên, từ ngoài Hải Vân trở vào Nam thuộc quản hạt Quảng Nam”. Vì tầm quan trọng của Hải Vân quan đối với sự an nguy của kinh đô Huế cho nên phủ Thừa Thiên được giao quyền quản lý cửa ải. Trong công tác quản lý, điều hành các đồn trạm, cửa ải thuộc Hải Vân sơn, vào năm 1862, tất cả đều đặt dưới quyền của một viên quan trấn thủ đóng ở cửa ải chính, có biên binh 4 đội hữu sai và 2 đội ứng sai từ kinh đô vào lo việc canh phòng. Hải Vân quan lúc này được trang bị 5 cỗ súng sơn pháo bằng đồng, 200 súng phun lửa, 100 cây pháo thăng thiên và cơ số thuốc đạn kèm theo súng. Bốn tháng sau khi xây dựng xong Hải Vân quan, triều đình Huế cho tách cửa biển Chu Mãi (Chân Mây) và Cảnh Dương ra khỏi sự cai quản của “Thủ ngự” Hải Vân quan. Lý do, “Chu Mãi, Cảnh Dương đều là nơi thuyền ghe thường đậu, khi có thuyền vận tải đường thủy qua lại ngoài biển thì thường do những chỗ ấy nhìn thăm, thế mà phần đất cách nhau đều vài mươi dặm, chợt có việc khẩn cấp phải báo thì bao lần núi non cách trở, chưa dễ thông ngay được, vậy xin Chu Mãi đặt riêng “Thủ ngự” và “Hiệp thủ” kiêm lãnh cả biển Cảnh Dương để việc tuần phòng cửa biển không thiếu sót”.

Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tiến công Đà Nẵng, nhanh chóng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà và các đồn ven bờ. Hơn 14 tháng đánh chiếm Đà Nẵng, quân Pháp muốn vượt qua Hải Vân sơn tiến ra Huế bằng đường bộ nhưng không thành công. Ngày 18-11-1859, chúng liều lĩnh đánh vào các đồn Chân Sảng và Định Hải dưới chân núi Hải Vân, dùng pháo hải quân bắn phá các công sự phòng thủ của triều đình bảo vệ con đường qua ải Hải Vân quan. Tháng 1-1860, triều đình Huế một mặt lệnh cho quân thứ Quảng Nam đóng tại các đồn Câu Đê, Hóa ổ ra sức đánh quân Pháp để mở đường cái quan ở đồn Châu Sáng lên Hải Vân. Mặt khác, cử Thị lang bộ binh Nguyễn Hữu Thành nhanh chóng vào Hải Vân quan để cùng Nguyễn Trọng Thao điều hành việc đánh Pháp. Cùng với đó, tăng cường thêm 150 quân để cùng 300 quân lính cũ làm nhiệm vụ chốt chặn bến đò Thừa Phúc, tuần xét đường phía sau Hải Vân quan thuộc địa phận Thừa Thiên. Quyết tâm chiến đấu cao của quan quân cùng với sự hiểm trở của Hải Vân sơn đã làm thất bại ý đồ đánh Huế bằng đường bộ của thực dân Pháp. Ngày 23-3-1860, chúng rút khỏi Đà Nẵng, chuyển hướng tiến công vào Nam Bộ.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), Hải Vân sơn là nơi diễn ra các trận đánh phục kích, đánh cắt giao thông có hiệu suất chiến đấu cao. Vực sâu, núi hiểm của Hải Vân trở thành mồ chôn quân xâm lược. Điển hình phải kể đến trận đánh ngày 24-1-1949 của Trung đoàn 108, được tăng cường 2 tiểu đoàn 19 và 79 của Khu 5, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát và Chính ủy Nguyễn Quyết. Cùng lúc, Trung đoàn phục kích cả đường ô tô và đường xe lửa, phá hủy 1 đầu máy, 12 toa xe lửa, 15 xe cơ giới, giết và làm bị thương 300 lính Pháp trên đèo Hải Vân. Bộ chỉ huy Pháp vô cùng tức tối, chúng liền huy động 8 tiểu đoàn đổ quân chặn các ngả đường lên núi và dọc sông Trường Định, hòng bao vây, tiêu diệt lực lượng ta. Đêm 27-1-1949, giữa lúc du kích và bộ đội địa phương Hòa Vang nghi binh thu hút địch, thì hàng vạn nhân dân huyện Hòa Vang huy động thuyền bè bí mật đưa 1800 cán bộ, chiến sĩ, thương binh ta và hàng chục tù binh địch qua sông về nơi tập kết an toàn./.

Thanh Hà