 |
Tắc đường tại Hà Nội. Ảnh Xuân Dũng |
Là công dân của những thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chắc hẳn không ai có thể tránh gặp nạn tắc đường, kẹt xe, nhất là vào những giờ tan tầm, những ngày mưa lụt hoặc tai nạn bất thường xảy ra trên phố. Trong các khu phố cũ, phố cổ cũng không phải hiếm gặp những “đại gia đình” vài ba thế hệ chen chúc nhau trong những căn hộ vài chục mét vuông chung bếp, chung khu vệ sinh bất tiện, nhếch nhác, chật chội... Để giảm khó khăn cho dân, các nhà quản lý đô thị cũng đã áp dụng nhiều biện pháp như: Giải tỏa giãn dân, phân luồng giao thông, phân giờ đi làm, đến trường, cùng nhiều phương án phát triển giao thông công cộng, xây dựng các tuyến, phương tiện vận chuyển hành khách trên cao, ngầm dưới lòng đất… nhằm giải tỏa các khu nhà ổ chuột, các điểm ùn tắc giao thông nhưng vì nhiều lý do, kết quả vẫn rất hạn chế... Bài toán giao thông-đô thị vẫn đang làm đau đầu cơ quan chức năng, là nỗi bức xúc không chỉ riêng người dân các thành phố lớn mà còn là sự ám ảnh của đồng bào cả nước, du khách quốc tế mỗi lần có dịp ghé thăm…
Chúng ta hiểu rằng vấn đề giao thông-dân cư đô thị liên quan mật thiết đến quy hoạch, phát triển của các thành phố lớn. Để “giấc mơ” “đường thông, hè thoáng” trở thành hiện thực đương nhiên phải có kế hoạch quy hoạch các khu dân cư, cơ quan công sở, trường học, nhà máy, xí nghiệp cho phù hợp theo hướng mở rộng ra các khu vực phụ cận, những nơi quỹ đất còn rộng rãi. Quy hoạch của Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt theo quyết định 108/QĐ-TTg từ năm 1998 và cứ 5 năm một lần, thành phố phải rà soát lại xem các định hướng có phù hợp với thực tế hay không để điều chỉnh. Theo quy hoạch này, quy mô dân số cho thành phố trung tâm khoảng 2,5 triệu dân đến 2020, trong đó chia hai khu vực: Bắc sông Hồng 1 triệu dân và nam sông Hồng là 1,5 triệu dân. Song đến nay, dân số trong nội đô đã là 1,74 triệu người và dự báo sẽ vượt ra khỏi con số là 2,5 triệu. Để đạt được mục tiêu đề ra, Hà Nội cũng đã có chủ trương giãn bớt nhiều cơ quan, các trường đại học lớn, các nhà máy, xí nghiệp trong nội đô chuyển đến những vị trí phù hợp, nhưng xem ra tốc độ triển khai vẫn còn rất chậm. Tại các khu “hạn chế phát triển” theo như quy hoạch trên (giới hạn từ vành đai 2 khu vực Vĩnh Tuy - Ngã Tư Vọng - Ngã Tư Sở - Cầu Giấy - Nhật Tân trở vào trung tâm), về lâu dài khống chế quy mô dân số ở mức độ phù hợp nhằm dồn sức ưu tiên cho “các khu phát triển” chủ yếu nằm ven đô. Chương trình thì đã rõ và những năm gần đây, một số khu “đô thị mới” cũng đã được đầu tư, xây dựng để giãn bớt số dân nội thành nhằm đạt được chỉ tiêu sử dụng đất đô thị bình quân là 100 m2/người (trong đó có đất giao thông là 25 m2/người, chỉ tiêu đất cây xanh, công viên, thể dục thể thao là 18 m2/người và chỉ tiêu đất xây dựng đất công trình phục vụ lợi ích công cộng là 5 m2/người). Tuy nhiên, một vấn đề khác nảy sinh, khi dân đã sẵn sàng di chuyển nhưng các cơ quan, công sở, nơi làm việc của họ, trường học, bệnh viện, chợ, các cơ sở dịch vụ khác chưa có, nên hằng ngày họ vẫn phải đổ về trung tâm trên những tuyến giao thông nhỏ hẹp, chật chội gây nên những sự quá tải trong các tuyến phố nội đô. Chúng ta cũng đã từng vui mừng khi nghe tin về một số kế hoạch của các trường đại học, cao đẳng với hàng vạn sinh viên cùng những nơi ở trọ chật hẹp của họ trong nội thành sẽ được di chuyển tới những “thành phố sinh viên” xa trung tâm, nơi điều kiện ăn ở, học tập của họ sẽ có những cải thiện đáng kể… Thế nhưng, tiếc là đến nay kế hoạch đó vẫn chưa trở thành hiện thực. Một số trường, công sở thậm chí còn đầu tư xây những giảng đường mới, những tòa nhà cao tầng, càng củng cố thêm những ý tưởng “bám trụ” vững chắc ở nội thành…
Từ nạn tắc đường, kẹt xe, những khu nhà ổ chuột chật chội trong nội thành đến quy hoạch, phát triển đô thị tại các thành phố lớn cho chúng ta nhiều suy nghĩ về sự đồng bộ và chuyển động tích cực của các cá nhân, tập thể cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, nhà máy... Để bộ mặt đô thị Việt Nam phát triển tương xứng với công cuộc đổi mới đi lên của đất nước, bên cạnh sự quyết đoán của cơ quan chức năng rất cần những suy nghĩ, tầm nhìn mới của lãnh đạo các thành phố lớn. “Chen nhau chỗ chật”, đô thị Việt Nam sẽ mãi chắp vá và loanh quanh với những giải pháp cục bộ hạn chế tắc đường, chen nhau trong những cơ quan, khu phố chật hẹp, ngôi nhà “siêu mỏng” có một không hai trên thế giới…
ĐỨC NGHĨA