 |
Ngày đầu tiên của chính quyền Xô-viết. Ảnh Vnmedia |
Cách đây 90 năm, ngày 7-11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại do Đảng Cộng sản Nga (Đảng Công nhân xã hội dân chủ (b) và V.I.Lê-nin lãnh đạo đã lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ đưa các tầng lớp nhân dân lao động Nga khỏi thân phận bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ đất nước, mà còn mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, soi sáng con đường cho các dân tộc bị áp bức và giải phóng hàng triệu, hàng triệu người lao động trên trái đất, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:
“Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(1). Với ý nghĩa đó, Cách mạng Tháng Mười Nga thực sự là cuộc Cách mạng xã hội vĩ đại nhất, chân chính nhất và triệt để nhất trong lịch sử.
Hiện nay, các thế lực thù địch, những kẻ chống chủ nghĩa xã hội, những phần tử cơ hội chính trị đang tìm mọi cách phủ nhận những giá trị, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhưng họ không thể phủ nhận được một sự thật là, Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động và ảnh hưởng to lớn đến tiến trình vận động và phát triển của thế giới đương đại. Những lý tưởng cao đẹp mà hiện nay nhân loại đang tiếp tục hướng tới như: độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, hòa bình, dân chủ, bình đẳng, bác ái cho mọi người, xóa bỏ áp bức, bóc lột, xóa nghèo nàn, lạc hậu, tệ phân biệt chủng tộc… cũng chính là lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau hơn 70 năm xây dựng, sự đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô (trước đây) không phải là “kết quả tất nhiên” của Cách mạng Tháng Mười Nga như ở các phần tử chống chủ nghĩa xã hội vẫn cố tình lầm tưởng mà đó là kết quả của sự đi chệch khỏi con đường đã được Cách mạng Tháng Mười soi sáng. Vẫn còn đó nhiều mô hình chủ nghĩa xã hội đầy sức sống như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cu-ba… là bằng chứng hùng hồn khẳng định sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vào hoàn cảnh cụ thể mỗi nước, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước đó đã đạt được những thành tựu ngày càng to lớn trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước; qua đó khẳng định trên thực tế sự phù hợp quy luật phát triển xã hội của Cách mạng Tháng Mười và giá trị trường tồn của lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga trong đời sống nhân loại.
Là một cuộc cách mạng xã hội vĩ đại của giai cấp vô sản, Cách mạng Tháng Mười Nga đã để lại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cho các dân tộc đang đấu tranh để tự giải phóng nhiều bài học quý báu về nghệ thuật đấu tranh giành và giữ chính quyền, vai trò lãnh đạo của chính Đảng vô sản cầm quyền về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Những bài học đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong quá trình lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng chế độ xã hội mới theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga; thực hiện: “Nhà máy và công xưởng thuộc về người lao động”, “Ruộng đất cho dân cày”, “Hòa bình cho nhân dân” và “Tự do, bình đẳng bác ái cho các dân tộc bị áp bức”.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên định lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga với một tư duy mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội. Với kiên định ấy, Đảng ta đã chèo lái con thuyền Cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách và mang lại những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh, đặc biệt là trong hơn 20 năm thực hiện đổi mới đất nước.
Hiện nay, cách mạng nước ta đang ở vào một thời kỳ mới: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mở rộng quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế thế giới nhằm mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta cần đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt, làm nòng cốt cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, các hoạt động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đánh bại chiến tranh xâm lược nếu xảy ra. Đúng như V.I.Lê-nin đã chỉ rõ, “phải có một đội quân kiên cường vững mạnh”(2) và “thắng lợi của CNXH ở nước Nga và trên toàn thế giới đều tùy thuộc vào sự tăng cường quân đội”(3). Thực tiễn nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười đã chứng minh những luận điểm đó của V.I.Lê-nin là hoàn toàn đúng đắn và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Xây dựng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay vừa có những thời cơ, thuận lợi mới nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức mới. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lê-nin và bài học của Cách mạng Tháng Mười Nga về xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng cách mạng và từ những bài học đau xót về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những năm 90 của thế kỷ XX, việc xây dựng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân trong mọi tình huống, nhằm làm cho lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân. Tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị trong các đơn vị Quân đội nhân dân. Chú trọng công tác xây dựng chi bộ, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong các đơn vị dân quân, tự vệ. Đổi mới nội dung, hình thức lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng; sự quản lý điều hành của chính quyền địa phương đối với lực lượng vũ trang; đổi mới nội dung, hình thức phối, kết hợp giữa các cơ quan chức năng của Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội với các đơn vị quân đội, công an, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an ninh trên địa bàn. Nghiên cứu đổi mới nội dung, hình thức hoạt động lãnh đạo của các tổ chức Đảng và quản lý của chính quyền các cấp đối với các lực lượng tự vệ ở các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân doanh, các lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ đặc biệt, làm nhiệm vụ hợp tác quốc tế. Nghiên cứu thành lập các tổ chức Đảng trong các lực lượng tự vệ ở các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, các cơ sở kinh tế tư nhân, đảm bảo nguyên tắc ở đâu có lực lượng vũ trang, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Làm tốt công tác phát triển đảng viên trong các lực lượng vũ trang, đặc biệt là trong các đơn vị dân quân ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, trong các đơn vị tự vệ ở các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hai là, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nghiên cứu làm rõ nội dung của các yêu cầu “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” theo nhận thức mới, tư duy mới, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và với chức năng, nhiệm vụ của Quân đội. Chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội, đảm bảo quân đội luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh chính quy hóa và từng bước hiện đại hóa quân đội theo lộ trình phù hợp; nâng cao năng lực chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các quân, binh chủng, phấn đấu đạt tới trình độ tinh nhuệ về mọi mặt quân sự, chính trị, chuyên môn, kỹ thuật, đặc biệt là tinh nhuệ về chính trị: có trình độ hiểu biết sâu rộng lý luận chính trị, giỏi đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng lý luận, chống các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; hiểu biết đầy đủ các yêu cầu, nội dung đấu tranh quốc phòng, đấu tranh pháp lý, đấu tranh ngoại giao quốc phòng trong hợp tác quốc tế để bảo vệ độc lập, chủ quyền; vừa giỏi đấu tranh bằng phương thức vũ trang, vừa giỏi đấu tranh bằng phương thức phi vũ trang; vừa tinh nhuệ trong tác chiến quân sự vừa tinh nhuệ trong tác chiến phi quân sự chống bạo loạn lật đổ và các hoạt động chống phá bằng quân sự và phi quân sự khác của các thế lực thù địch. Đổi mới cơ cấu và tổ chức quân đội phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng. Nghiên cứu phát triển chức năng, nhiệm vụ của quân đội để quân đội thực hiện tốt chức năng chiến đấu, công tác, sản xuất trong điều kiện mới. Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có số lượng đủ, chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân đội trong mọi tình huống. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng trong quân đội, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống chính trị - tinh thần quân đội. Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục giác ngộ mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong Quân đội nhân dân Việt Nam theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết quân dân, thực hiện quân với dân một ý chí xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phát huy tốt dân chủ nội bộ đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật quân đội và pháp luật Nhà nước. Thực hiện tốt chế độ chính ủy, chính trị viên ở tất cả các cấp, tăng cường hiệu lực của người chỉ huy.
Ba là, xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ rộng khắp, có tổ chức chặt chẽ, có chất lượng cao, thực sự làm nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân ở từng địa phương, từng cơ sở, là một lực lượng xây dựng cơ bản trong xây dựng khu vực phòng thủ. Chăm lo xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ vững mạnh cả chính trị, tư tưởng và tổ chức. Xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ phải vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng-an ninh tại địa phương, vừa tham gia sản xuất, phát triển kinh tế; giữ vững sự ổn định chính trị; trật tự an toàn xã hội ngay trong từng cơ sở sản xuất, từng doanh nghiệp, từng thôn xóm, bản, làng; làm công tác vận động quần chúng ở cơ sở, vận động quần chúng nhân dân ngay từ trong từng gia đình, thôn xóm, bản, làng. Trong tình hình mới, cần nghiên cứu tổ chức dân quân, tự vệ sao cho hợp lý, nhất là tổ chức dân quân ở các thôn, bản vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tự vệ trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng dự bị động viên, các lực lượng bán vũ trang đông đảo, tạo nguồn bổ sung lực lượng kịp thời cho lực lượng vũ trang. Chăm lo xây dựng các tổ chức Đảng trong dân quân, tự vệ; tăng cường công tác chính trị-tư tưởng, làm cho dân quân, tự vệ thực sự là chỗ dựa vững chắc của cấp ủy, chính quyền các cấp trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa phương.
Bốn là, tăng cường đoàn kết gắn bó giữa nhân dân với các lực lượng vũ trang. Giáo dục và vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng lực lượng vũ trang; ủng hộ và giúp đỡ các lực lượng vũ trang hoàn thành nhiệm vụ. Giáo dục sâu rộng trong toàn dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên, nhi đồng hình ảnh cao đẹp, tấm gương trong sáng về chính trị, đạo đức, lối sống của người chiến sĩ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào lực lượng vũ trang của Đảng trong thời kỳ mới. Có chính sách chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, đặc biệt là chính sách đối với các lực lượng dân quân ở nông thôn, tự vệ ở thành phố, xí nghiệp, nhà máy, với các lực lượng dự bị động viên trong điều kiện mới.
Thế giới sẽ còn đổi thay, nhưng lý tưởng cao đẹp và những bài học vô giá của Cách mạng Tháng Mười sẽ không bao giờ thay đổi. Có điều cần nghiên cứu, vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể. Chính vì thế chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu học thuyết quân sự Mác-Lê-nin, quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ mới, coi đây là một nhiệm vụ cơ bản thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Đại tướng LÊ VĂN DŨNG Bí thư Trung ương Đảng
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb, H.2000, tập 12,tr.300.
(2) V.I.Lênin, Toàn tập, T.36, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tr. 423.
(3) V.I.Lênin, Toàn tập, T.37, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tr. 114.