QĐND Online - Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, truyền thuyết của Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển nói lên rằng: từ xa xưa tổ tiên ta không chỉ gắn bó với đất liền mà còn gắn bó với biển khơi. Đó là tư duy sơ khai về quá trình trinh phục biển của người Việt cổ. Hình thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn khẳng định từ lâu dân tộc ta đã gắn với sông nước, lấy thuyền làm phương tiện làm ăn sinh sống. Quan tài hình thuyền trong những ngôi mộ cổ được tìm thấy ở Tràng Kênh-Việt Khê (Hải Phòng) với hơn 100 hiện vật tuỳ táng bằng đồng thau, trong đó có trống đồng, khẳng định cư dân sống nhờ thuyền, chết cũng không rời hình ảnh con thuyền.

Thực chất của quá trình dựng nước đầu tiên ở nước ta là một quá trình lấn biển theo hai hướng: tứ núi xuống (lấn biển) và ngược lại, tù hướng biển lên (biển lấn). Có những nhóm người thời biển tiến toàn tân là cư dân ven biển nhưng sang đến thời kỳ cách đây 4.000-5.000 năm, theo đà biến thoái, họ đã nghiễm nhiên trở thành cư dân nội địa, cư dân của vùng đồng bằng phù trú, phì nhiêu. Đó là một trong những nét độc đáo thể hiện tính chất bản địa của những nhóm cư dân thời dựng nước trong đó có dư dân của Văn Lang.

Vào khoảng trước và sau công nguyên, với những thành tựu trinh phục mặt nước biển, những cư dân cuối cùng của quận Nhật Nam với sự bảo tồn được độc lập, tự do qua sự thành lập nước Lâm Ấp, đã có những mối giao lưu rộng rãi với Ấn Độ. Cư dân của Ốc Eo đã có những mối liên hệ xa bằng đường biển đến tận vùng Địa Trung Hải. Trong tình trạng bị nô dịch bởi các thế lực phong kiến phương Bắc có ưu thế về sức mạnh biển, nhưng cư dân ven biển ở phía Bắc cũng biến thành những những người lao công tủi nhục, bị bóc lột nặng nề. Thời Ngô Quyền và sau này là Đinh Tiên Hoàng, 3 trong 7 quận của nước ta đã khôi phục được nền độc lập, tự chủ mở đầu cho kỷ nguyên Đại Việt. Nhà Trần hùng mạnh, ba lần đánh tan quân Nguyên đã khởi dựng sự nghiệp từ những người đánh cá ven biển Nam Định-Ninh Bình ngày nay. Nhà Mạc với sự phát huy cao độ yếu tố dân gian trong nền văn hoá dân tộc cũng bắt đầu sự nghiệp của mình từ những cư dân và nghề đánh cá ở ven biển phải chăng là một hiện tượng độc đáo ở Việt Nam.

Vấn đề chủ quyền lãnh hải cũng được các triều đình phong kiến nước ta chăm lo quản lý. Thời Lý thiết lập các trang, thời Trần thiết lập các Trấn, thời Lê (năm 1426) đặt Tuần Kiểm ở các xứ cửa biển, các đồn, các đảo… để quản lý biển, thu thuế tàu thuyền của nước ngoài qua lại vùng biển của ta. Thời Nam-Bắc phân tranh, với việc thành lập và biến các đội Hoàng Sa thành một tổ chức của Nhà nước, quyền làm chủ lãnh hải ở nước ta đã được xác định chính thức. Hàng năm triều đình thường chọn 70 suất dân ở Cù Lao Ré để sung vào đội này. Họ là những người thông thạo nghề đi biển và có nhiều kinh nghiệm quý báu hoạt động ở vùng biển nhiều đảo San Hô. Thời Tây Sơn vẫn duy trì hoạt động của các đội Hoàng Sa. Năm 1786, Vua sai cai đội Hoàng Sa Hội Đức Hầu dẫn 4 thuyền vượt biển đến thẳng Hoàng Sa và các cù lao trên biển thu lượm vàng bạc, đồ đồng, đại bác, tiểu bác, đồi mồi, hải sâm và của quý mang về kinh đô dâng nộp theo lệ. Nhà Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy dân ở xã An Vĩnh sung vào; hằng năm đầu tháng 3 đi thuyền ra đảo; sai đội Bắc Hải mộ dân ỏ phường Tư Chính (Bình Thuận) hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hoá vật. Đội này cũng do đội đôi Hoàng Sa quản lý. Năm 1816, vua Gia Long lệnh cho thuỷ quân cùng đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa để khảo sát và đo vẽ đường biển. Năm 1836, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng lệnh vua ra Hoàng Sa trông nom đo đạc lưu dấu để ghi nhớ.

Thuỷ quân Lạc Việt đã từng đứng vào bậc nhất, nhì ở Đông Nam châu Á. Trong suốt chiều dài lịch sử gần 2.000 năm của dân tộc Việt Nam, trên sông biển đã hình thành nên những trận thuỷ chiến oanh liệt như: chống giặc Quỳnh Châu từ phía Bắc, diệt Hồ Tôn từ phía Nam (thời Hùng Vương); quân thuỷ Lê Chân làm khiếp đảm quân thuỷ địch ở vùng biển Hải Phòng (thời Hai Bà Trưng); chặn đánh Trần Bá Tiên ở Tô Lịch, Hồ Điển Triệt, Đầm Dạ Trạch (thời Lý Nam Đế); đánh quân Đường, vây thành Đại La (thời Mai Thúc Loan); trận Bạch Đằng lần thứ nhất-năm 938 (thời Ngô Quyền); trận Bạch Đằng lần thứ hai - năm 981 (thời Lê Hoàn); náo động Châu Khâm, châu Liêm – năm 1075, chặn đứng quân địch ngoài biển - năm 1077 (thời Lý). Đặc biệt là kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3 - năm 1288, quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn thiên tài đã lập được chiến công vang dội nhất trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử, tiêu diệt toàn bộ đội quân thủy 6 vạn tên, bắt các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ, buộc Thoát Hoan phải rút quân chạy chốn về nước. Những nhân vật tài giỏi về hoạt động trên sông biển như Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái… đã lập công suất sắc, làm rạng rỡ nền nghệ thuật thuỷ chiến của dân tộc ta.

Thế kỷ XVI, XVII và những năm đầu thế kỷ XVIII, thủy quân Việt Nam cũng chiến thắng các đội thủy quân xâm lược của chủ nghĩa tư bản châu Âu như đánh thắng hạm đội của thực dân Tây Ban Nha năm 1595, hai lần đánh thắng hạm đội của thực dân Hà Lan trong các năm 1642, 1643; đánh thắng hạm đội của thực dân Anh năm 1702. Thời kỳ Tây Sơn (thế kỷ XVIII), Nguyễn Huệ đã tổ chức phát triển mạnh kinh tế biển, xây dựng được một đội quân thuỷ hùng mạnh vào bậc nhất ở Đông Nam Á. Quân thủy Tây Sơn đã nhiều lần vào Nam ra Bắc đánh đổ hai tập đoàn phong kiến là nhà Trịnh (Đàng Trong) và nhà Nguyễn (Đàng Ngoài), chấm dứt cảnh đất nước bị chia cắt hơn 200 năm. Năm 1785, Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy quân thuỷ tiến công và chiến thắng quân Xiêm ở Rạch Gầm-Xoài Mút trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử. Các chiến bịn Việt Nam thuộc các triều đại có truyền thống chiến đấu giỏi ở trên biển, trên sông và luôn có sự phối hợp chặ chẽ giữa lực lượng dưới nước và lực lượng trên bờ. Những trận thuỷ chiến ở trên trên sông, biển đã diễn ra hết sức oanh liệt mà ngày nay được khái quát là “truyền thống Bặch Đằng” chống ngoại xâm.

Thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, đặc biệt từ khi cách mạng Tháng Tám thành công, để bảo vệ chủ quyền nước ta, các tổ chức dân quân ở các làng xóm, thôn xã ven biển được khẩn trương xây dựng. Quân và dân ta vừa bám sông, bám biển đánh chìm nhiều tàu thuyền của địch, vừa bị lợi dụng sông biển để tổ chức vận tải phục vụ kháng chiến. Dọc tuyến vận tải ven biển, những đơn vị chuyên làm nhiệm vụ vận tải đường biển được tổ chức, nhất là đội vận tải đường biển của Liên khu 5 trong những năm cuối của cuộc kháng chiến đã phát triển đến 200 người với 130 chiếc thuyền, trong đó có khoảng một nửa là thuyền lớn, chở được từ 15 đến 20 tấn. Từ năm 1948 đến năm 1954, đội vận chuyển được gần 3.000 tấn hàng hoá các loại choc các tỉnh Nam Trung bộ và miền Đông Nam Bộ. Lợi dụng các dòng sông, dòng suối, ta tổ chức gần 12 nghìn thuyền, buồm thuyền độc mộc, bè, mảng, vận chuyển lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm thiết yếu tiếp tế góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp.

Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước (thế kỷ XX), dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn cả trên đất đất liền và trên sông biển tiến tới giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hải quân nhân dân Việt Nam thực sự là lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên chiến trường biển, phối hợp chặt chẽ với các lực lược vũ trang và nhân dân ven biển hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đường Hồ Chí Minh trên biển Đông đã góp phần chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam đã trở thành huyền thoại sống mãi với dân tộc Việt Nam.

Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta. Lấn biển để dựng nước thông qua biển để giữ nước là một nét độc đáo Việt Nam trong quá khứ. Đó cũng chính là nét độc đáo của bản sắc văn hoá Việt Nam cần được giữ vững và phát huy hơn nữa trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Càng tự hào và trân trọng di sản quá khứ, chúng ta càng phải khai thác, khơi dậy nguồn sức mạnh của bao thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp giữ vững chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, thực hiện tốt lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy nó”.

Dương Hà