Pháp tăng cường vũ khí, trang bị cho chiến trường Đông Dương

Ngay sau khi được phe Đồng Minh giải phóng năm 1944, Pháp đã ngay lập tức tính đến việc chiếm lại các thuộc địa. Lúc này, kinh tế Pháp ở trong tình trạng gần như sụp đổ, cần tài nguyên thuộc địa để phục hồi. Để đạt được mục đích ấy, cần một lượng vật tư chiến tranh lớn để tái trang bị cho quân viễn chinh Pháp và quân thuộc địa do Pháp tổ chức. Tuy nhiên, nguồn cung từ nền công nghiệp bị tàn phá của Pháp không đáp ứng đủ nhu cầu.

Vì lẽ đó, quân đoàn lê dương tinh nhuệ được ưu tiên trang bị mới từ nguồn viện trợ của các nước đồng minh phương Tây. Phần lớn vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạng nặng như súng cối, trung liên, đại liên đều do Anh, Mỹ sản xuất. Quân lê dương được cơ giới hóa với xe tăng, thiết giáp, xe lội nước. Lính và khí tài được đưa đến Đông Dương bằng tàu vận tải do Mỹ cung cấp, mà mới chỉ vài năm trước đó được dùng trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít. Pháp cử nhiều phái đoàn đến Philippines, Singapore và Ấn Độ, thu mua vũ khí từ các kho tàng còn sót lại của quân Đồng Minh sau khi thắng Nhật. Phương tiện cơ giới, pháo binh của Pháp hầu hết là trang bị đã được Mỹ sử dụng ở mặt trận Thái Bình Dương.

leftcenterrightdel
Xe tăng hạng nhẹ của Pháp tập trung tại Hà Nội năm 1946. Ảnh tư liệu.

Ngoài ra, Pháp còn hàng chục nghìn kiều dân tại Việt Nam và binh lính đến từ các nước thuộc địa. Để vũ trang cho lực lượng này, vũ khí cũ từ chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến lợi phẩm thu của Nhật được tận dụng tối đa.

Cuối năm 1946, quân viễn chinh của tướng Jean-Étienne Valluy đóng tại Hà Nội tăng lên 6.500 lính chính quy, trang bị 5.000 súng trường và carbine Mỹ, 800 tiểu liên, 180 trung liên. Ngoài ra 7.000 kiều dân Pháp cũng được trang bị vũ khí từ nhiều nguồn. Bộ binh Pháp được cơ giới hóa hoàn toàn, với sự yểm trợ của 22 xe tăng, 40 xe thiết giáp, 42 lựu pháo. Hơn nữa, quân Pháp còn hoàn toàn làm chủ bầu trời với 30 máy bay trang bị bom và súng máy.

Vũ khí thô sơ của Việt Minh

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ ra đời trong bối cảnh đất nước nghèo nàn, lạc hậu, hầu như không có kinh phí mua sắm trang bị cho lực lượng vũ trang. Pháp nắm quyền kiểm soát toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc và các cảng biển lớn, cô lập Việt Minh với bên ngoài. Không những thế, việc kiểm soát cảng biển cho phép quân Pháp có thể tăng viện thường xuyên. Ngược lại, mỗi mất mát về người và trang bị của Việt Minh là sự tiêu hao rất khó thay thế.

Năm 1946, toàn bộ lực lượng Việt Minh tại Hà Nội chỉ có khoảng 2.500 chiến sĩ, 8.000 dân quân nhưng thiếu vũ khí trầm trọng. Trước ngày chiến sự nổ ra, số quân này chỉ có trong tay 1.516 súng trường, 3 trung liên, 1 đại liên. Vũ khí chống tăng chỉ có 1 súng bazooka và 80 bom 3 càng cho các chiến sĩ cảm tử. Pháo binh bao gồm 1 sơn pháo 75mm, 2 súng cối và 7 pháo phòng không cũ từ các pháo đài quanh thành phố, được hoán cải để pháo kích mục tiêu mặt đất. Còn lại đều là vũ khí thô sơ, tự chế từ những vật dụng hàng ngày.

leftcenterrightdel
Vũ khí thô sơ từ các vật dụng hàng ngày được bộ đội Việt Minh sử dụng trong chiến đấu. Ảnh: thanglong.chinhphu.vn.

Việt Minh hầu như không có nguồn cung súng, đạn nào ngoại trừ tịch thu từ chính những đội quân nước ngoài đang và đang trú đóng trên lãnh thổ. Thậm chí những vật tư còn dùng được sau khi trục vớt trong các tàu hàng Nhật bị đắm ở vịnh Bắc Bộ cũng được Việt Minh tận dụng. Quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trang bị lẫn lộn súng từ Âu sang Á như Lebel, Berthier của Pháp, Mauser của Đức và phiên bản sao chép Kiểu 24 của Trung Quốc, họ súng Arisaka của quân đội Thiên Hoàng. Hầu như tất cả các loại súng trường của các quân đội lớn trên thế giới, bằng cách này hay cách khác, đều xuất hiện ở Hà Nội khi đó. Các loại súng trường, carbine, tiểu liên mới do Anh, Mỹ sản xuất rất hiếm.

Mỗi tiểu đội Việt Minh chỉ có 3 đến 4 súng trường, còn lại là dao găm, mã tấu. Nhiều súng đã cũ, gỉ sét. Vũ khí hỏng được tháo dỡ, lấy những chi tiết lành lặn sửa chữa vũ khí cùng loại. Nhưng vấn đề nan giải nhất là súng đã ít mà đạn dược cũng vô cùng thiếu thốn. Do có quá nhiều chủng loại, việc cung ứng đạn cho súng lại càng khó khăn. Trước cuộc chiến, hầu hết đạn được sản xuất bằng cách nhồi thuốc súng và đầu đạn vào vỏ đạn cũ. Hầu hết đạn, lựu đạn tự chế có chất lượng tồi. Máy móc trong các xưởng đường sắt của Pháp được dùng để sửa chữa súng hoặc sản xuất vũ khí ném tay thô sơ, hình thành những công binh xưởng đầu tiên của Hà Nội.

Lấy vũ khí địch để đánh địch

Sau khi hiệu lệnh từ pháo đài Láng vang lên vào tối 19-12, báo hiệu cuộc tổng công kích, thực dân Pháp đóng trong thành phố đã có những phút đầu chao đảo. Nhưng nhờ ưu thế cả về quân số lẫn trang bị, quân Pháp nhanh chóng phản công. Các tướng lĩnh Pháp đều là những nhà cầm quân kỳ cựu, tin rằng dù có bị tấn công trước, quân viễn chinh Pháp sẽ nhanh chóng làm chủ tình hình và đè bẹp Việt Minh sau 24 giờ.

leftcenterrightdel

Tự vệ Hà Nội sử dụng đại liên Hotchkiss M1914 thu được của Pháp. Ảnh tư liệu.

Bộ binh cơ giới Pháp cùng xe tăng-thiết giáp gầm rú trên các con phố, chia làm 4 cánh xuất phát từ thành Hà Nội, tấn công hòng chiếm lại các vị trí quan trọng. Nhưng đà tiến công của quân Pháp nhanh chóng biến thành cuộc giành giật khi vô số chướng ngại vật và các ổ đề kháng của quân và dân Việt Nam mọc lên khắp thành phố. Xe thiết giáp xoay xở khó khăn trong các con phố chật hẹp, đầy vật cản do người dân tạo nên bằng đồ đạc trong nhà. Trong quá trình nhích từng chút một như vậy, xe cộ trở thành mục tiêu cho bom xăng, hoặc bị phá hủy bởi các chiến sĩ cảm tử dùng bom 3 càng.

Cố sức lùng sục Việt Minh trong từng khu nhà, bộ binh Pháp đối mặt với những mạng lưới lỗ giao thông từ phòng này sang phòng khác. Súng ống cồng kềnh và thể hình to lớn của lính Pháp lúc này lại là bất lợi khi bị giáng những đòn giáp lá cà bằng vũ khí cận chiến. Quân Pháp phải mất nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày chỉ để chiếm được một tòa nhà, dãy phố. Áp dụng triệt để chỉ thị “lấy vũ khí địch đánh địch”, bộ đội, dân quân Việt Minh có thêm “nguồn cung” vũ khí đáng kể từ đối thủ. Mỗi khẩu súng, quả lựu đạn thu được là thêm một vũ khí cho quân dân tiếp tục chiến đấu, lại có chất lượng tốt hơn vũ khí cũ, tự chế có trong tay.  

leftcenterrightdel
Tiểu liên, súng carbine do Mỹ, Pháp sản xuất được các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô sử dụng. Ảnh: btlsqsvn.org.vn.

Nhưng khác xa so với 24 giờ mà người Pháp tự tin dự đoán, trận chiến tại Hà Nội đã kéo dài thành 60 ngày đêm sa lầy trong thành phố. Không những thế, mục tiêu ban đầu tướng lĩnh Pháp đặt ra đã thất bại hoàn toàn khi đầu não cách mạng cùng bộ đội chủ lực Thủ đô rút lui an toàn về căn cứ địa Việt Bắc. Chính kết cục này khiến Pháp vướng vào một cuộc chiến dai dẳng, thất bại trong nỗ lực tiến công lên Tây Bắc những năm tiếp theo, và cuối cùng là nhận thất bại tại Điện Biên Phủ năm 1954.

MINH TRÍ