Thiếu tướng Du Trường Giang, Phó tư lệnh Quân khu 7:
Người để lại nhiều bài học quý về chỉ đạo quân sự, quốc phòng
Đại tướng Văn Tiến Dũng-một vị tướng có tinh thần quyết chiến, quyết thắng và tài thao lược; một người cộng sản kiên cường, bất khuất, đã cống hiến cả cuộc đời cho lý tưởng của Đảng, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng, ông trực tiếp chỉ đạo nhiều mặt trận và chiến dịch quan trọng, có tính chiến lược như: Chiến dịch Đường 9-Nam Lào (năm 1971), Chiến dịch Trị-Thiên (năm 1972), Chiến dịch phòng không Hà Nội-Hải Phòng (tháng 12-1972). Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, trực tiếp chỉ đạo Chiến dịch Tây Nguyên và sau đó là Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Thiếu tướng Du Trường Giang.
Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như bản anh hùng ca vĩ đại nhất, huy hoàng nhất, kết thúc cuộc trường chinh suốt 30 năm chống hai đế quốc xâm lược, hoàn thành trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi đó có vai trò quan trọng, đóng góp to lớn của Đại tướng Văn Tiến Dũng trong 30 năm kháng chiến và những năm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong Đại thắng Mùa Xuân năm 1975. Với nhãn quan của nhà quân sự chiến lược, với kinh nghiệm của một Tổng Tham mưu trưởng mưu lược, can trường, tư lệnh của những mặt trận, chiến dịch quan trọng, ông đã để lại nhiều bài học về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, nhất là những bài học sâu sắc về nghệ thuật chỉ đạo điều hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự. Đó là nghệ thuật về chọn hướng, mục tiêu và thời cơ tiến công; về tổ chức lực lượng và cơ động, tập trung lực lượng; về phương pháp tác chiến, hình thức tác chiến trong tác chiến chiến dịch, chiến lược... Cùng với đó, còn rất nhiều nội dung khác như nghệ thuật chớp thời cơ, tạo thế, tạo lực, tận dụng thời gian, không gian; nghệ thuật đánh trận mở đầu, trận kết thúc; nghệ thuật chọn hướng, chọn mục tiêu chiến dịch, trận then chốt chiến dịch; nghệ thuật tổ chức và xây dựng thế trận; nghệ thuật nghi binh, lừa địch... đã được ông và bộ chỉ huy các chiến dịch vận dụng trong cuộc Tổng tiến công chiến lược Mùa Xuân năm 1975.
Ngày nay, ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm quý báu của Đại tướng Văn Tiến Dũng mãi còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trách nhiệm- hành động thiết thực của chúng ta là tiếp tục nghiên cứu những kinh nghiệm đó để phát triển nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của công cuộc củng cố quốc phòng, phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
QUANG ANH (lược ghi)
Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải, Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng:
Đại tướng Văn Tiến Dũng-nhà chiến lược quân sự
Đại tướng Văn Tiến Dũng là nhà chiến lược quân sự có uy tín, người lãnh đạo, chỉ huy đầy tinh thần cách mạng tiến công, một vị tướng xuất sắc của Quân đội ta. Ông đã có những đóng góp quan trọng, để lại những dấu ấn trong sự phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, cả về lý luận và thực tiễn.
Tư tưởng và tài năng của Đại tướng Văn Tiến Dũng thể hiện trên những nội dung chủ yếu là: Góp phần làm sâu sắc bản chất cách mạng, tạo nền tảng để nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh không ngừng phát triển. Nắm vững và vận dụng sáng tạo lý luận về các mối quan hệ cơ bản của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chỉ đạo, điều hành chiến tranh, tác chiến chiến lược. Phát triển nghệ thuật tạo thế, tạo lực, chuyển hóa thế trận, chớp thời cơ, huy động sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, đánh thắng địch. Kết hợp chặt chẽ hai phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân Việt Nam; vận dụng các hình thức chiến thuật, cách đánh sáng tạo; kết hợp đấu tranh vũ trang với các mặt đấu tranh khác, giành thắng lợi quyết định.
Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh không ngừng phát triển, thể hiện tư duy quân sự rất sáng tạo, làm nên những thắng lợi vĩ đại. Sự phát triển đó là thành quả của cả dân tộc, hàng triệu cán bộ, chiến sĩ, trong đó có đóng góp quan trọng của Đại tướng Văn Tiến Dũng. Từ lý luận và thực tiễn, Đại tướng đã tổng kết bốn vấn đề độc đáo và sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Một là, nghệ thuật tiến công của đấu tranh vũ trang toàn dân, trên cả ba vùng chiến lược. Hai là, nghệ thuật lấy ít thắng nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Ba là, nghệ thuật đánh địch chủ động, sáng tạo, buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta. Bốn là, nghệ thuật sáng tạo và kết hợp nhiều phương pháp, hình thức tiến công tiêu diệt địch, tiến công toàn diện, liên tục.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Vấn đề quan trọng là cần nghiên cứu, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lịch sử trong chiến tranh cách mạng, cùng với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để thực hiện điều đó, cần làm tốt công tác nghiên cứu dự báo chiến lược, nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, theo hướng “tinh, gọn, mạnh, cơ động” làm nòng cốt, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. Đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cũng là thực hiện tâm nguyện của Đại tướng: “…Mọi người cần tiếp tục phát huy mọi phẩm chất tốt đẹp vốn có trước đây trong kháng chiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với một chất lượng mới và tầm cao mới, phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới”(*).
VŨ XUÂN (lược ghi)
(*)Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tuyển tập, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 580.
Đồng chí Ngô Thị Thanh Hằng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội:
Đại tướng Văn Tiến Dũng-người con ưu tú của Thủ đô
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Văn Tiến Dũng là tấm gương sáng, mẫu mực cho các thế hệ người Việt Nam và đặc biệt là Đảng bộ, chính quyền, LLVT và nhân dân Thủ đô noi theo. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, đồng chí Văn Tiến Dũng đã có nhiều đóng góp cho cách mạng. Sự cống hiến đó được thể hiện đậm nét ngay từ những năm tháng trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là giai đoạn lịch sử cách mạng rất quan trọng, sôi động, độc đáo của Đảng ta nói chung và của Đảng bộ Thủ đô nói riêng. Ở thời kỳ này, đồng chí Văn Tiến Dũng đã tham gia sôi nổi và có những đóng góp to lớn vào phong trào cách mạng của Đảng bộ Hà Nội, nêu tấm gương sáng về một người con ưu tú của Thủ đô kiên định, trung thành, son sắt với lý tưởng cách mạng của Đảng...
Đồng chí Ngô Thị Thanh Hằng.
Trải qua hơn 65 năm hoạt động cách mạng liên tục, được rèn luyện, thử thách và trưởng thành qua các chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc và của thủ đô Hà Nội. Từ năm 19 tuổi, đồng chí Văn Tiến Dũng đã tham gia cách mạng; 20 tuổi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương; 21 tuổi tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ TP Hà Nội; 3 lần bị thực dân Pháp bắt, tù đày, một lần bị kết án tử hình, 2 lần đồng chí mưu trí trốn khỏi nhà tù, tìm mọi cách để liên lạc với Đảng, tiếp tục hoạt động cách mạng; 35 năm được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1951-1986); 26 năm nắm giữ trọng trách Ủy viên Bộ Chính trị (1960-1986); 57 năm tham gia LLVT (1945-2002), trong đó có 25 năm là Tổng Tham mưu trưởng (1953-1978) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đồng chí là một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc, có uy tín lớn của Quân đội ta, là một nhà chiến lược, một người lãnh đạo quân sự tài ba của Đảng, đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược và nền khoa học, nghệ thuật quân sự của cách mạng Việt Nam. Do công lao và thành tích to lớn đối với cách mạng, đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân, huy chương, kỷ niệm chương, nhiều huy hiệu, danh hiệu cao quý của Nhà nước ta và một số nước trao tặng. TP Hà Nội đã đặt tên một con đường lớn, mang tên “Văn Tiến Dũng”, tại quận Bắc Từ Liêm.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đảng bộ, chính quyền, LLVT và nhân dân Thủ đô nguyện tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống văn hiến, anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH; xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, thực hiện tốt Nghị quyết XVI của Đảng bộ TP Hà Nội, góp phần quan trọng cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, xứng đáng với niềm tin yêu, mong đợi của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Đó chính là ý chí, quyết tâm và hành động cách mạng thiết thực, có ý nghĩa cao đẹp nhất để tưởng nhớ, tri ân công lao to lớn của Đại tướng Văn Tiến Dũng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của Đảng bộ Thủ đô trong thời kỳ mới.
SƠN HÀ lược ghi
Bà Văn Việt Hoa, con gái Đại tướng Văn Tiến Dũng:
Cha tôi nghiêm khắc và nhân từ
Mùa xuân Đinh Dậu năm nay, mấy chị em tôi về thăm lại chùa Bột Xuyên. Vãn cảnh tĩnh mịch đầy hương thơm hoa bưởi trong chùa, xem những bức ảnh của cha tôi treo trong nhà Tổ, tôi chạnh nhớ những giây phút gian khổ mà cha đã trải qua, chúng tôi rất xúc động, không nói nên lời. Ngoài sân chùa, nhìn những cây ngọc lan do chính cha tôi trồng ngày nào, nay thân đã quãng hai người ôm, tôi hiểu rằng, những năm tháng “nương bóng cửa Phật từ bi”, những gì Phật dạy trong kinh kệ đã khắc sâu vào một góc nhỏ nào đó trong trái tim của cha tôi, một người cộng sản kiên trung đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Suốt cuộc đời còn lại, trên bàn làm việc của cha tôi, bao giờ cũng có một đĩa sứ trắng nhỏ trong đó là những bông ngọc lan thanh khiết. Khi chuyển về nhà mới, cha tôi cũng đã trồng một cây ngọc lan ngay cửa nhà mà đến nay, cứ mỗi mùa hoa, cả khu nhà lại thoang thoảng hương lan, làm chúng tôi lại cảm thấy linh hồn cha tôi như đang ở đâu đây cùng chúng tôi.
Chúng tôi lớn lên trong sự yêu thương của cha mẹ. Các anh chị em tôi đều trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Họ đều tham gia phục vụ quân đội, song cha tôi là người rất nghiêm khắc đối với con cái, nên các anh chị tôi đều nhập ngũ và sống, làm việc như những người lính bình thường. Cha tôi luôn nhắc nhở: “Nếu các con không được rèn luyện như những người chiến sĩ, không biết cuộc sống của người chiến sĩ thì không bao giờ các con trở thành người sĩ quan chỉ huy giỏi”. Bởi vậy, các anh, chị tôi đều phục vụ quân đội, rèn luyện, trưởng thành từ người lính binh nhì. Riêng tôi, vì là con út nên được cha tôi giữ lại ở nhà và luôn được ông quan tâm dạy bảo, mặc dù ông rất bận rộn với công việc chung, thậm chí liên tục đi các chiến dịch, đến các đơn vị, địa phương. Được gần cha và cũng được ông yêu chiều, nên nhiều lần tôi được cha cho đi cùng.
Sống gần cha nhiều năm, tôi hiểu rõ một điều, thời gian tu tâm, tích đức tại chùa Bột Xuyên, mặc dù để che mắt địch đang lùng sục và tiếp tục hoạt động gây cơ sở cách mạng, song cái tâm của sư Hà vẫn ăn sâu trong con người cha tôi và ảnh hưởng đến cách sống của ông trong suốt cuộc đời cho đến khi cha tôi về cõi vĩnh hằng. Ông đã sống như một sư ông đức hạnh khổ tử, một người cộng sản một lòng vì Đảng, vì dân, vì quân đội, vì Tổ quốc Việt Nam, hiến trọn cuộc đời cho cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
NGÔ DUY ĐÔNG lược ghi
Tiến sĩ Lý Việt Quang, Phó viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng:
Người lãnh đạo khởi nghĩa ở Ninh Bình
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành quả chung của toàn thể dân tộc Việt Nam, là kết tinh sự nỗ lực phấn đấu của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong nỗ lực chung đó, có vai trò của đồng chí Văn Tiến Dũng, Ủy viên Thường vụ Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ kiêm Bí thư Khu ủy Chiến khu Quang Trung.
Từ một công nhân yêu nước giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng khi mới 19 tuổi, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 20 tuổi, đồng chí Văn Tiến Dũng đã nhanh chóng trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh cách mạng hết sức phong phú, từ trong bão táp cách mạng, qua những “trường học lớn” như các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và trở thành một cán bộ chủ chốt của Liên đoàn Lao động Hà Nội, Tỉnh ủy Hà Đông, Tỉnh ủy Bắc Ninh, rồi Xứ ủy Bắc Kỳ. Vai trò cống hiến của đồng chí Văn Tiến Dũng đối với Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được thể hiện tập trung và nổi bật từ sau Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng (tháng 3-1945)...
Bước sang tháng 8-1945, phát xít Nhật đã không thể chống đỡ trước hai gọng kìm siết chặt là liên quân Mỹ-Anh và Hồng quân Liên Xô. Sự đầu hàng của phát xít Nhật chỉ là vấn đề thời gian. Trong khi đó, các cơ sở cách mạng và lực lượng cách mạng đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trong cả nước, sẵn sàng chờ chỉ thị của Trung ương Đảng. Nhận rõ sự biến đổi mau lẹ của tình hình, Trung ương Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng (từ ngày 13 đến 15-8-1945), rồi ngay sau đó là Quốc dân Đại hội tại Tân Trào (Tuyên Quang) để thống nhất về chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền. Đồng chí Văn Tiến Dũng là một đại biểu Xứ ủy Bắc Kỳ và Chiến khu Quang Trung được triệu tập cấp tốc tham dự hội nghị. Ngay ngày đầu, khi Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa họp thì thông tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh được truyền đi. Do vậy, trong ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và 11 giờ đêm cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc đã ra bản Quân lệnh số 1, hạ lệnh cho toàn quốc nhất tề vùng dậy tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.
Vừa lên đến Tân Trào, đồng chí Văn Tiến Dũng nhận được chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh gấp rút quay trở về địa phương để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Đồng chí Văn Tiến Dũng đã cùng với đồng chí Trần Quý Kiên về ngay Hà Nội. Sau khi trao đổi tình hình với đồng chí Nguyễn Khang, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội, đồng chí đã nhanh chóng xuống Ninh Bình chỉ đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở đây.
Từ điểm đầu tiên là huyện lỵ Gia Viễn (ngày 19-8), ngày 20-8, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng lan rộng trong toàn tỉnh Ninh Bình và giành được thắng lợi vẻ vang. Ngày 25-8-1945, Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Ninh Bình do đồng chí Văn Tiến Dũng là Chủ tịch đã ra mắt nhân dân tỉnh trong niềm vui hân hoan của ngày hội chiến thắng...
MINH TIẾN (lược ghi)
Đại tá, Tiến sĩ Lê Hoa, nguyên Thư ký của Đại tướng Văn Tiến Dũng:
Vị tướng gần gũi, thương yêu cán bộ, chiến sĩ
Nghiêm túc trong công tác và sinh hoạt, nhưng trong đời thường, Đại tướng Văn Tiến Dũng sống rất chân thật, cởi mở, giản dị, luôn quan tâm đến mọi người với tấm lòng thương yêu chân thành, khoan dung, độ lượng. Đại tướng luôn quan tâm, trăn trở làm sao để chăm lo đời sống cho cán bộ, chiến sĩ. Nhiều lần tôi được đi theo Đại tướng đến thăm và làm việc tại các đơn vị... Trước khi vào làm việc, bao giờ đồng chí cũng hỏi thăm tình hình sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị; đi kiểm tra, xem xét trực tiếp điều kiện ăn, ở của bộ đội. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tình hình kinh tế đất nước và đời sống của bộ đội còn nhiều khó khăn, vì vậy Đại tướng luôn nhắc nhở cán bộ lãnh đạo Tổng cục Hậu cần và các đơn vị trong toàn quân tìm mọi biện pháp để lao động sản xuất, tăng gia cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Đại tướng khuyên cán bộ lãnh đạo các cơ quan, đơn vị hạn chế tổ chức liên hoan, tiệc tùng nhân những ngày truyền thống của đơn vị mình. Và trong thực tế, những lần đến thăm, chào mừng ngày truyền thống của các đơn vị, rất ít khi đồng chí ở lại tham dự liên hoan.
Tôi nhớ lần đi cùng Đại tướng ra thăm và kiểm tra các hoạt động của bộ đội đảo Trường Sa vào mùa hè năm 1980, cùng tham gia cuộc hành trình có Phó đô đốc-Tư lệnh Quân chủng Hải quân Giáp Văn Cương. Ngày ấy, Quân đội ta chưa có tàu lớn như bây giờ nên việc ra đảo rất khó khăn, vất vả. Mặc dù đi trên biển sóng to, gió lớn, ai cũng mệt nhoài người vì say sóng, nhưng khi bước chân lên đảo, Đại tướng vẫn vui vẻ trực tiếp gặp gỡ cán bộ, chiến sĩ; đi kiểm tra, xem xét cách bố phòng, nơi ăn chốn ở của bộ đội. Khi trở về doanh trại, ngồi trò chuyện với cán bộ, chiến sĩ, đồng chí hỏi thăm quê quán, hoàn cảnh gia đình từng người. Thực tế cuộc sống gian khổ, thiếu thốn của bộ đội ngoài đảo khiến đồng chí Bộ trưởng rất xúc động. Đại tướng rơm rớm nước mắt, ôm choàng một chiến sĩ trẻ mới 18 tuổi đời vừa ra đảo mấy tháng. Đồng chí hứa với cán bộ, chiến sĩ sẽ phản ánh với Quân ủy Trung ương và Chính phủ, tìm mọi biện pháp tạo điều kiện cải thiện mọi mặt cho bộ đội sống và chiến đấu trên đảo. Và thực tế sau đó, không những Bộ Quốc phòng mà các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, đều góp công sức chăm lo cho các đơn vị bộ đội không chỉ ở Trường Sa mà còn ở tất cả các đảo trên cả nước...
HOÀNG ANH (lược ghi)