Tới nay, kể từ khi có hiệu lực (2009), Chính phủ đã ban hành 6 Nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 11 Quyết định; các bộ, ngành ban hành 22 Thông tư và Thông tư liên tịch thực hiện Luật Quản lý nợ công. Nhìn chung, hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đầy đủ, đảm bảo triển khai thực hiện Luật ngay sau khi có hiệu lực. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được thực hiện kịp thời để đưa các quy định tại Luật vào thực tiễn quản lý, đáp ứng yêu cầu quản lý nợ công theo quy định của pháp luật. 

leftcenterrightdel
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho ý kiến kết thúc nội dung thảo luận về dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi). Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội
Việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công 2009 là cần thiết vì những lý do: Xuất phát từ yêu cầu phải sửa đổi Luật Quản lý nợ công cho phù hợp với các quy định của Hiến pháp 2013 đồng thời đảm bảo thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan ban hành sau Luật Quản lý nợ công từ 2009 đến nay: như Luật NSNN năm 2015, Luật Đầu tư công năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế sau hơn 6 năm triển khai thi hành Luật Quản lý nợ công như đã nêu trên, tập trung vào việc làm rõ phạm vi, công cụ, quy định về cho vay lại, bảo lãnh chính phủ, vay nợ của chính quyền địa phương; phân định rõ ràng giữa chính sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư công với quản lý nợ công; tăng cường giám sát, quản lý rủi ro, đảm bảo an toàn nợ công; hoàn thiện công tác thống kê, kế toán, kiểm tra, thanh tra; tăng cường trách nhiệm giải trình gắn với chức năng, nhiệm vụ quản lý nợ công.

Xuất phát từ yêu cầu quản lý nợ bền vững, an toàn, hiệu quả phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới: Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững đã xác định sự cần thiết phải “hoàn thiện thể chế, đặc biệt là chính sách, công cụ, bộ máy quản lý nợ công đảm bảo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật có liên quan để kiểm soát toàn diện rủi ro và hiệu quả nợ công, nghiên cứu điều chỉnh phạm vi nợ công phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế”. Đồng thời, Nghị quyết 25/2016/QH14 ngày 9/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020 cũng đặt ra yêu cầu “hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý nợ công theo hướng điều chỉnh phạm vi nợ công hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tế của Việt Nam”.

Vì vậy, việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công để cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội thành chính sách, pháp luật của Nhà nước đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới là hết sức cần thiết.

leftcenterrightdel
Đại biểu Quốc hội Bùi Thanh Tùng - TP Hải Phòng phát biểu ý kiến về dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi). Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội.
Đại biểu Bùi Thanh Tùng (Hải Phòng) cơ bản thống nhất với phạm vi điều chỉnh tại Khoản 1 Điều 1. Tuy nhiên, đại biểu này đề nghị ban soạn thảo đánh giá cụ thể hơn về thực trạng tình hình ngân sách Nhà nước, trả nợ thay cho các doanh nghiệp Nhà nước, tình hình và thực chất ngân hàng chính sách, cần giải trình lý do nợ do ngân hàng Nhà nước phát hành không thuộc nợ công cũng như một số khoản nợ khác như: Nợ xây dựng cơ bản của các tỉnh, huyện, xã trong trường hợp không đủ khả năng chi trả, nợ hoàn thuế giá trị gia tăng...

Về chỉ tiêu an toàn, chiến lược chương trình và kế hoạch vay, trả nợ công ở chương 2 của dự thảo luật, đại biểu  Bùi Thanh Tùng thống nhất về chỉ tiêu an toàn nợ công được quy định trong các khoản 1, 2 của Điều 10 cũng như thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định hoặc điều chỉnh các chỉ tiêu an toàn nợ công quy định tại khoản 3 của điều này. Tuy nhiên, đại biểu này đề nghị cần bổ sung các quy định nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp xác định chỉ tiêu an toàn nợ công để phù hợp với thông lệ quốc tế,  sát với thực trạnh nền kinh tế của Việt Nam .

Đại biểu Nguyễn Mạnh Cường (Quảng Bình) cho rằng dự án luật có liên quan đến rất nhiều luật hiện hành, do vậy việc bảo đảm tính thống nhất là cần thiết. Tuy nhiên, dự thảo luật chưa đáp ứng yêu cầu này, ví dụ thẩm quyền, đối tượng tổ chức giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước và giám sát của Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc có sự khác nhau.

Theo đại biểu Nguyễn Thanh Xuân (Cần Thơ) tại Khoản 2, Điều 3 của dự thảo đề nghị đưa khoản nợ tự vay, tự trả của doanh nghiệp Nhà nước vào nợ công vì đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc nhà nước nắm cổ phần chi phối thì Nhà nước vẫn có trách nhiệm đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Đã có trường hợp nhà nước trả nợ thay cho doanh nghiệp Nhà nước. Quy định này nhằm kiểm soát tổng nợ vay, quản lý và sử dụng vốn vay của doanh nghiệp Nhà nước đúng mục đích, hiệu quả.

Về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan trong quản lý, sử dụng nợ công tại khoản 4 Điều 15, đại biểu này đề nghị cân nhắc kỹ đối với quy định này. Không sử dụng ngân sách Nhà nước để trả các khoản vay do Chính phủ bảo lãnh để cho vay lại.

Nhận diện rủi ro và xử lý rủi ro nợ công, đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) cho rằng cần phải giám sát cả những khoản nợ ngoài phạm vi nợ công vì khi có rủi ro đối với những khoản nợ này sẽ ảnh hưởng đến an toàn nợ công. Luật chưa quy định rõ trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong quản lý nợ công. Vì vậy, khó xử lý khi để xảy ra thất thoát lãng phí. “Cần quy định rõ hơn về trách nhiệm từng cơ quan, tổ chứ, cá nhân, trong từng bước, từng quy trình quản lý nợ, kể cả trách nhiệm trong thẩm định, phê duyệt chủ trương vay nợ...”, đại biểu Hoàng Quang Hàm cho biết.

Giải trình ý kiến của đại biểu Quốc hội về dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết: “Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XII và Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị về tái cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, quản lý nợ công, bảo đảm tài chính quốc gia bền vững, tinh thần đặt ra với yêu cầu quản lý nợ công là hoàn thiện thể chế, đảm bảo vững chắc công cụ quản lý nợ công, đảm bảo đúng quy định pháp luật có liên quan; nghiên cứu phù hợp với thông lệ quốc tế. Về rà soát quy định của pháp luật có liên quan, Bộ Tài chính đã rà soát 24 luật liên quan và sẽ tiếp tục rà soát để tránh sự chồng chéo. Riêng Ngân hàng chính sách, Chính phủ bảo lãnh phát hành trái phiếu, việc thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chính phủ và cũng tính vào nợ công. Về vấn đề bảo lãnh nợ nước ngoài, cho vay lại thì sẽ tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội và tiếp tục rà soát trên tinh thần siết chặt”.

SONG VŨ