Cải cách đang có xu hướng chững lại
Theo Bảng xếp hạng MTKD Doing Business của Ngân hàng Thế giới (WB), trong giai đoạn 2016-2019, điểm số về MTKD của Việt Nam liên tục tăng, nhưng chậm; trong khi đó, thứ hạng về môi trường trên bảng xếp hạng cũng đang có xu hướng giảm. Cụ thể, các cải cách được ghi nhận có cải thiện đột phá vào năm 2017, giúp Việt Nam từ vị trí thứ 82 (năm 2016) vươn lên 68/190 nền kinh tế các quốc gia, vùng lãnh thổ được WB đánh giá. Tuy nhiên, liên tiếp trong hai năm (2018 và 2019), thứ hạng của Việt Nam mỗi năm giảm một bậc. Hiện nay, Việt Nam đang ở vị trí 70/190 của bảng xếp hạng này. Tính chung, MTKD của Việt Nam đang đứng thứ 5 trong ASEAN và còn khoảng cách xa so với Singapore (xếp số 2), Malaysia (12) và Thái Lan (21).
 |
Hoạt động kiểm tra chuyên ngành cải thiện tốt sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu (Trong ảnh: Hoạt động xuất khẩu sản phẩm thép của Tập đoàn Hòa Phát). Ảnh: MINH ĐỨC
|
Phân tích chi tiết toàn bộ 10 chỉ tiêu mà WB sử dụng để xếp hạng MTKD cho thấy, sau 4 năm, có hai chỉ số cải thiện vượt trội, là: Tiếp cận điện năng tăng 69 bậc, nộp thuế và bảo hiểm xã hội tăng 58 bậc. Có 3 chỉ số tăng hạng nhờ cải cách là tiếp cận tín dụng, khởi sự kinh doanh và giải quyết tranh chấp hợp đồng. Chỉ số giải quyết phá sản doanh nghiệp (DN) tăng hạng nhưng không phải do cải cách mà do các nước khác giảm bậc. Ở chiều ngược lại, vẫn có tới 4 chỉ số giảm bậc, gồm: Giao dịch thương mại qua biên giới giảm 11 bậc; bảo vệ cổ đông thiểu số giảm 10 bậc; đăng ký tài sản giảm 5 bậc do nhiều năm không có ghi nhận cải cách; cấp phép xây dựng giảm một bậc do thời gian cấp phép xây dựng kéo dài gây trở ngại lớn đối với DN.
“Xu hướng cải cách của Việt Nam đang chững lại. Điều này cho thấy mức độ cải thiện của Việt Nam dù tăng song có nhiều nền kinh tế khác có mức độ cải thiện về MTKD tốt hơn và vượt lên so với cải cách của Việt Nam”, Trưởng ban MTKD và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương Nguyễn Minh Thảo nêu quan điểm.
Các bộ, ngành vẫn còn “chia phần” quản lý
Theo bà Nguyễn Minh Thảo, việc cải cách MTKD ở Việt Nam còn gặp nhiều rào cản, thách thức. Thực tế cho thấy có xu hướng các văn bản pháp luật thể hiện sự "chia phần" quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Quản lý chuyên ngành chậm cải cách hoặc cải cách hình thức, thiếu thực chất. Chi phí không chính thức còn phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực. Bên cạnh đó, có tình trạng áp dụng pháp luật tùy tiện hay cùng một quy định nhưng cách thức thực hiện khác nhau, gây bất lợi lớn đối với DN. Cùng với đó, thanh tra, kiểm tra vẫn là nỗi lo đối với DN.
Nói rõ thêm về những rào cản của quản lý chuyên ngành, theo bà Nguyễn Minh Thảo, kiểm tra chuyên ngành chậm cải cách, thậm chí có những văn bản mới được ban hành đi ngược lại với chỉ đạo của Chính phủ, hoặc thể hiện cải cách hình thức, thiếu thực chất. Có tình trạng một số bộ, ngành “khai thác” yêu cầu về quản lý mặt hàng theo mã HS (mã số phân loại hàng hóa theo danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu) để mở rộng thêm đối tượng quản lý; thậm chí là tình trạng chia phần quản lý trong các văn bản pháp luật. Điểm tên một số ví dụ cụ thể, bà Nguyễn Minh Thảo cho biết, Bộ Công Thương đã công bố danh mục các mặt hàng (kèm mã HS) đã được cắt giảm kiểm tra chuyên ngành thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương, trong đó có hàng trăm mặt hàng sắt thép, dệt may được liệt kê trong danh mục. Tuy nhiên, nội dung trong quyết định công bố danh mục của bộ chỉ là không kiểm tra trong giai đoạn thông quan, mà chuyển sang kiểm tra sau thông quan. Hay là việc Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng cùng quản lý các thiết bị nâng áp dụng cùng quy chuẩn, tiêu chuẩn áp dụng; Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Công Thương cùng quản lý mặt hàng nồi hơi, ở các điều kiện nồi hơi có áp suất khác nhau…
 |
Chỉ số tiếp cận điện năng của Việt Nam duy trì được đà cải thiện tốt (trong ảnh: Thực hiện bảo trì hệ thống điện).
|
Đưa ra những đánh giá về chất lượng MTKD từ góc nhìn DN, Trưởng ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh: Hiện nay, có nhiều lĩnh vực thủ tục hành chính rất phiền hà, trong đó phải kể đến đất đai, thuế và bảo hiểm xã hội. Bên cạnh đó, DN còn rất quan ngại về các thủ tục hậu đăng ký DN, có tới 16% số DN phải đợi hơn một tháng mới có đầy đủ giấy tờ cần thiết để đi vào hoạt động, 31% số DN phải trả các chi phí không chính thức khi làm thủ tục thành lập DN… Đáng lo ngại, niềm tin của DN vào hệ thống tư pháp còn thấp. Kết quả khảo sát của VCCI năm 2018 cho thấy chưa đến 50% số DN cân nhắc sử dụng đến tòa án để giải quyết các tranh chấp kinh doanh. “Cải cách MTKD của Việt Nam cần thực chất hơn nữa. Một số cải cách hiện nay còn mang tính trình diễn”, ông Đậu Anh Tuấn bày tỏ.
Cần sự vào cuộc đồng bộ, mạnh mẽ và thực chất
Chuyên gia kinh tế, thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng, ông Nguyễn Đình Cung cho rằng, nếu muốn tìm kiếm động lực tăng trưởng mới thì Việt Nam phải cải cách thực chất môi trường đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Đình Cung, nhìn vào những cải cách của Việt Nam được WB ghi nhận, có thể thấy mức độ vào cuộc khác nhau giữa các bộ, ngành, địa phương trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo rất quyết liệt, vấn đề ở đây vẫn là tư duy trong xây dựng và thực thi chính sách. Lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương cần dành sự quan tâm thỏa đang tới các chỉ số nhiều năm không có cải thiện hoặc cải thiện chậm. Trong đó, nếu không cải cách trong lĩnh vực tư pháp (xử lý tranh chấp hợp đồng và giải quyết phá sản) thì môi trường đầu tư kinh doanh không thay đổi được nhiều, các lĩnh vực khác dư địa còn rất ít”, ông Nguyễn Đình Cung đề xuất.
Có cùng cách nhìn nhận, bà Nguyễn Minh Thảo nhấn mạnh: Để có sự thay đổi vượt bậc chất lượng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, trước hết phải từ tư duy quản lý của các bộ, ngành. Cải cách phải theo hướng vì mục tiêu phát triển DN, cần có sự quan tâm, vào cuộc một cách đồng bộ, mạnh mẽ và thực chất của các bộ, ngành, địa phương.
VŨ DUNG