QĐND - Năm 2015, nền kinh tế Việt Nam bước sang trang mới mang theo kỳ vọng về những bước chuyển lớn trước hai cơ hội, đó là chính thức gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Các doanh nghiệp sẽ khai thác được tối đa những ưu đãi thương mại tự do mang lại, đồng thời cũng đối mặt với không ít thách thức đòi hỏi sự thay đổi để thích nghi.
Mở ra cơ hội
Theo TS Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, việc Việt Nam gia nhập AEC và TPP sẽ mở ra nhiều cơ hội tốt cho doanh nghiệp như: Thuế suất lưu thông hàng hóa giữa các nước sẽ được cắt giảm dần về 0%, thị trường xuất khẩu có cơ hội tăng trưởng cao, cùng các lợi thế khác... tạo đà cho kinh tế phát triển. Đặc biệt là quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa với việc thiết lập Khu vực thương mại tự do (FTA) được đẩy mạnh. Hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn, lao động (nhất là lao động có kỹ năng) dịch chuyển với quy mô lớn hơn và nhanh chóng hơn. Cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực cao hơn và sân chơi cũng trở nên rộng lớn hơn. Bên cạnh đó, việc mở cửa, hội nhập càng sâu rộng được kỳ vọng sẽ có tác động hết sức tích cực đến nền kinh tế Việt Nam, nhất là khi mở rộng FTA trong nội khối ASEAN + 1 FTA và ASEAN + 6 FTA. Một ví dụ nữa là trường hợp tham gia TPP, xuất khẩu và GDP của Việt Nam có thể tăng thêm tương ứng 68 tỷ USD và 36 tỷ USD (28,4% và 10,5%) vào năm 2025. Thêm vào đó, dòng vốn FDI gia tăng từ nhiều nước có trình độ phát triển cao có thể đem lại những lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ và kỹ năng quản lý. Sự gia tăng vai trò nhà đầu tư nước ngoài cũng có thể góp phần đối với sự phát triển các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Ngoài ra, điều quan trọng nhất xét trong trung và dài hạn, đó là việc thực thi cam kết cùng cải cách sẽ tạo dựng môi trường đầu tư minh bạch và cạnh tranh, qua đó không chỉ hấp dẫn đầu tư mà còn tạo nền tảng phân bổ các nguồn đầu tư hiệu quả, dù đó là vốn trong nước hay vốn nước ngoài.
 |
Ngành công nghiệp xi măng cần những thay đổi để thích nghi. (Trong ảnh: Nhà máy Xi măng Điện Biên). |
Còn theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu, các hiệp định thương mại quốc tế sẽ tác động rất lớn đến quá trình hội nhập của Việt Nam và các doanh nghiệp. Trong đó sẽ tạo ra cơ hội cho hàng Việt Nam tăng cạnh tranh vì không phải chịu thuế nhập khẩu, mở rộng thị trường trong khu vực. Hơn nữa, nước ta lại là tâm điểm trong trục giao thông đường không và đường biển của khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp trong nước sẽ có cơ hội tìm kiếm khách hàng quốc tế, đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận.
Thiếu tướng Lê Công, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) chia sẻ: “Áp lực cạnh tranh trong nước và cạnh tranh toàn cầu khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra rất nhanh và mạnh, buộc MB phải tăng năng lực tài chính mới đủ sức giữ vững hiệu quả hoạt động, giữ vững vị thế và vươn ra khu vực”.
Kèm khó khăn
Theo ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, tiềm năng và cơ hội của hội nhập là rất lớn. Nhưng bài học sau 8 năm gia nhập WTO đã cho thấy, cơ hội có khi lại trở thành thách thức nếu thiếu ứng xử chính sách vĩ mô thích hợp và thiếu những cải cách bên trong cần thiết. Thời gian qua, tình hình cải cách thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam đã đạt những bước tiến quan trọng, nhất là đã thông qua, sửa đổi 29 luật, trong đó có những luật quan trọng như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Kinh doanh bất động sản…, đã tạo ra khuôn khổ thể chế mới cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa tạo được chuyển biến cơ bản trong việc thực hiện đột phá chiến lược có ý nghĩa quan trọng nhất-đột phá tạo sức lan tỏa đến hai đột phá khác là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng hơn 30% GDP, nhiều hàng hóa và dịch vụ doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường và chèn lấn khu vực tư nhân, chưa có đổi mới về hệ thống chính trị, tạo “đường dẫn” cho cải cách hành chính đến với thị trường, người dân và doanh nghiệp.
 |
Ngành ngân hàng đang nỗ lực tái cơ cấu. |
TS Võ Trí Thành nhận định, tác động tổng thể của hội nhập là tích cực nhưng không có nghĩa đúng với mọi ngành, mọi doanh nghiệp. Nhất là những ngành vốn được bảo hộ nhiều và những doanh nghiệp kém cạnh tranh sẽ phải giảm sản xuất, thậm chí thu nhỏ hoặc phá sản. Lợi ích sẽ không tự đến, ngay cả với những ngành hàng được xem là lợi thế. Có thể ví dụ như đối với TPP, dệt may phải bảo đảm nguyên tắc xuất xứ để được áp thuế suất 0% của nước thành viên nhập khẩu. Hay như với thủy sản, vốn thuế suất không còn là rào cản chính mà các biện pháp kiểm dịch SPS có thể trở nên ngặt nghèo hơn rất nhiều. Đáng chú ý là sự bùng phát của khu vực tài chính thể hiện cả ở quy mô tài sản, cả ở mức độ tinh xảo của công cụ tài chính, với xu hướng hình thành các tập đoàn tài chính đa năng cũng như nhiều định chế tài chính khác nhau. Song song với đó là rủi ro cả ở cấp độ kinh tế vĩ mô và vi mô tăng lên do khu vực này càng ngày có khả năng tạo tiền, lợi nhuận “thoát ly” khỏi vai trò trung gian trong chuyển tiết kiệm sang đầu tư sản xuất kinh doanh. Đối với chính phủ, cải cách hiện nay không còn là “tự thân” như vào đầu thập niên 1990 nữa, mà đã tương tác mạnh hơn nhiều với tiến trình hội nhập. Trong khi đó, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế chuyển đổi, trình độ phát triển thấp, vì vậy khoảng cách giữa đòi hỏi của hội nhập và năng lực đáp ứng thực tế là không hề nhỏ. Trong một môi trường hội nhập mạnh mẽ sẽ làm gia tăng rủi ro và những cú sốc thường xuyên (sốc giá, sốc đảo chiều dịch chuyển vốn, sốc do áp dụng hàng rào bảo hộ kỹ thuật, sốc do địa chính trị, sốc do thảm họa thiên tai…). Hơn bao giờ hết, việc tạo dựng năng lực quản trị sự bất định và khả năng chống chọi, giảm rủi ro các cú sốc gây ra đang là yêu cầu cấp thiết của cả chính phủ và doanh nghiệp.
Hội nhập vừa là cơ hội vừa là thách thức và cũng không ít rủi ro. Song rủi ro lớn nhất của không hội nhập là không phát triển được cùng thời đại. Đồng thời, hội nhập mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ. Hội nhập phải là một bộ phận trong cải cách và chiến lược phát triển, gắn bó hữu cơ với tiến trình cải cách bên trong của đất nước. Cả Chính phủ, bộ máy Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội cần vào cuộc để một nước Việt Nam hưng thịnh, phát triển bền vững.
Bài và ảnh: HOÀNG TRƯỜNG GIANG