Hoạt động hiệu quả nhưng còn chậm
Theo báo cáo của Viện Kinh tế Việt Nam, trong những năm qua, doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) có bước phát triển vượt bậc, góp phần thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định vai trò then chốt và là lực lượng vật chất quan trọng của quốc gia. Với quá trình đẩy mạnh cổ phần hóa, số lượng DNNN giảm dần, chiếm tỷ trọng thấp về số lượng trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp, song vẫn nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, tạo nguồn doanh thu và đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước. Mặc dù hiện nay số lượng DNNN không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số doanh nghiệp cả nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các doanh nghiệp trên thị trường và 30% GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc làm và vai trò điều tiết, ổn định thị trường khi có bất ổn, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng - an ninh...
 |
Tháo gỡ những “điểm nghẽn” để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN/ Ảnh minh họa/TTXVN. |
Có thể thấy, hiệu quả hoạt động của DNNN thời gian qua đã được cải thiện, thể hiện được vai trò chủ đạo trên một số lĩnh vực, tạo nguồn thu lớn cho Nhà nước. Đặc biệt, vai trò chủ đạo đó đã góp phần vào công tác chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô được tốt hơn trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp.
Bên cạnh những cố gắng đảm bảo vai trò của mình trong nền kinh tế, sự phát triển khu vực DNNN đã và đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, ví dụ như: Hiệu quả và năng lực cạnh tranh của DNNN còn hạn chế, chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Cụ thể, báo cáo của Viện Kinh tế Việt Nam chỉ rõ, hiện nay, DNNN đóng góp gần 40% GDP, phần còn lại 60% GDP là đóng góp từ doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI. Trong khi đó khoảng 60% nguồn lực xã hội đang tập trung cho DNNN. Như vậy, khu vực DNNN sử dụng vốn chưa hiệu quả. Bên cạnh đó, cơ chế quản trị doanh nghiệp còn chậm đổi mới, không phù hợp với thông lệ, tính công khai, tính minh bạch còn hạn chế, sử dụng vốn trong DNNN còn yếu kém; việc ứng dụng công nghệ tiên tiến còn hạn chế. Thời điểm này, phần lớn doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam vẫn đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ.
Thông tin về thực trạng hoạt động của DNNN quy mô lớn, ông Nguyễn Đức Trung, Phó cục trưởng, Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, một số DNNN quy mô lớn hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế nhưng vẫn chưa thực sự phát huy được hết tiềm năng, thế mạnh do một số những tồn tại, hạn chế.
Gỡ “nút thắt” cho doanh nghiệp Nhà nước
Hiện nay, DNNN đã và đang khẳng định vai trò then chốt trong phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, các DNNN lại chưa thể phát huy hết được tiềm lực của mình trong phát triển kinh tế.
 |
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam/ Ảnh minh họa/TTXVN. |
Về vấn đề này, ông Nguyễn Đức Trung nhận định, có 3 nguyên nhân chính dẫn đến việc các DNNN chưa thực sự phát huy được tiềm năng của mình. Một là, kết quả thực hiện nhiệm vụ DNNN làm lực lượng vật chất quan trọng để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vẫn chưa rõ nét. Hiệu quả hoạt động DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ; năng lực cạnh tranh, đặc biệt cạnh tranh quốc tế còn hạn chế. Hai là, hiện nay một số Bộ được giao quản lý DNNN nhưng chưa có một văn bản nào quy định rõ một cơ quan có nhiệm vụ quản lý chung đối với hệ thống DNNN. Ba là, một số DNNN được giao một khối lượng tài sản rất lớn để kinh doanh, nhưng hệ thống quản lý, giám sát không theo kịp với yêu cầu thực tiễn, thiếu hiệu lực và kém hiệu quả, dẫn tới không ngăn ngừa và cảnh báo được các nguy cơ làm doanh nghiệp bị thua lỗ, mất vốn nhà nước; chưa chú trọng đến trách nhiệm giải trình của người đứng đầu đối với tiến trình sắp xếp, đổi mới và kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Còn theo PGS, TS Hoàng Văn Hải, Viện trưởng Viện Quản trị kinh doanh, Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội, điểm nghẽn trong cơ chế chính sách phát triển và quản trị DNNN được xét ở hai phương diện là vĩ mô và nội tại doanh nghiệp. Ở tầm vĩ mô, khung pháp lý thiếu ổn định và không rõ ràng; quy định về mô hình tổ chức hoạt động thiếu triết lý thống nhất; cơ chế chủ quản nặng nề và hay thay đổi cơ quan chủ quản. Ở nội tại doanh nghiệp, không có chiến lược phát triển hoặc có nhưng chỉ mang tính hình thức; mô hình quản trị và kiểm soát quyền lực chưa đi vào thực chất; năng lực thích ứng, tính chuyên nghiệp và cam kết cán bộ quản lý thấp.
Đề xuất một số chủ trương lớn cần thay đổi để phát triển DNNN hiện nay, PGS, TS Hồ Sĩ Hùng, Phó chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhấn mạnh, cần tập trung vào việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách theo hướng đổi mới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước được hoạt động bình đẳng, chủ động và cạnh tranh với các doanh nghiệp khác; củng cố, phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có thương hiệu lâu đời, bên cạnh khối doanh nghiệp tư nhân trong nước đang ngày càng lớn mạnh sẽ là một trong những giải pháp quan trọng.
Có cùng quan điểm, TS Lê Xuân Sang, Phó viện trưởng, Viện kinh tế Việt Nam cho rằng, cần làm rõ nội hàm kinh tế nhà nước là chủ đạo, DNNN là nòng cốt; hoàn thiện quản trị bình đẳng, thống nhất giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khác, nhất là những khâu yếu như tuyển dụng, bổ nhiệm; niêm yết quốc tế, tận dụng Covid-19 để chuyển đổi số, nhất là thoái vốn nhà nước; thực hiện nghiêm, có tính kiến tạo phát triển các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), nhất là FTA thế hệ mới, đặc biệt là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương để nâng cao hiệu quả giám sát, quản lý DNNN và quản trị DNNN; tận dụng cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để nâng cao hiệu quả giám sát, quản lý.
TRẦN YẾN