Đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn ngoài việc cần đổi mới cơ chế chính sách phù hợp, đầu tư về khoa học công nghệ, thu hút nguồn vốn đầu tư…, cũng cần các địa phương chủ động, sáng tạo để phát huy tối đa điều kiện, lợi thế của mình. Nói như Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Lê Đình Sơn, đây chính là “cơ hội vàng” để cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc.
Theo ông Lê Đình Sơn, chương trình Nông thôn mới triển khai rộng khắp và thực sự là cuộc cách mạng ở nông thôn. Để phát huy hiệu quả mỗi địa phương cần có cách làm riêng của mình.
 |
|
Ảnh minh họa.
|
“Hà Tĩnh tập trung cao nhất là phát triển sản xuất, đây là nút thắt cơ bản, nông nghiệp phát triển thế nào để có giá trị gia tăng cao, có quy hoạch phù hợp với từng địa phương, xác định cây trồng chủ lực ưu tiên đầu tư”, ông Sơn chia sẻ.
Tỉnh Hà Tĩnh là địa phương rất quan tâm tới cơ chế chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Có đến 70% nguồn lực từ chương trình xây dựng nông thôn mới là dành cho phát triển sản xuất, trong đó người nông dân được ưu tiên hỗ trợ lãi suất. Hiện số dư nợ của toàn tỉnh cho vay sản xuất là khoảng 1.000 tỷ đồng, người dân được vay bằng lãi suất hỗ trợ người nghèo.
“Dù có hỗ trợ vậy thì vẫn cần liên kết với doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ sản xuất chứ để tự nông dân sản xuất thì rất khó khăn. Ngoài ra cũng phải đầu tư cho khoa học công nghệ, các mô hình điểm cũng như quan tâm tới chất lượng an toàn thực phẩm”, ông Sơn nói.
Ở Hà Tĩnh hiện nay, có khoảng hơn 1.700 mô hình, trong đó rất nhiều mô hình cho thu nhập hơn 250 triệu đồng/ha trở lên. Chuyện có vùng sản xuất như ở huyện Hương Sơn, mô hình trồng giống Cam Bù nếu chăm sóc tốt cho thu nhập 1 tỷ đồng/ha/năm cũng là chuyện thường. Ngoài trồng cây ăn quả, tỉnh cũng có chuỗi mô hình sản xuất thủy sản, chăn nuôi và đang tính nhân rộng các mô hình này ra hơn nữa. Tỉnh cũng ra cơ chế giảm tối đa thủ tục hành chính nên nhiều công trình thuộc chương trình nông thôn mới cũng giảm được 30 – 40% thủ tục.
Tại Quảng Ninh, người ta lại quan tâm nhiều hơn tới vấn đề xây dựng thương hiệu nhưng mọi việc không hẳn đều thuận lợi do còn thiếu phát triển đồng bộ. Theo ông Đặng Duy Hậu, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là căn bản, nếu không làm được điều này thì việc phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng chỉ thành công một phần.
“Phải làm thương hiệu, làm tốt chất lượng liên quan tới an toàn thực phẩm. Sản xuất hàng hóa tuân theo thị trường. Muốn làm được, quan trọng là quy hoạch lại sản xuất, tạo ra sản lượng hàng hóa nhất định phục vụ thị trường và hạn chế sản xuất tự phát”, ông Hậu nhấn mạnh.
Mặc dù vậy, ông Hậu cũng thừa nhận còn không ít khó khăn khi triển khai. Khi tỉnh Quảng Ninh xây dựng thương hiệu nông sản, doanh nghiệp tự tìm đến mua mà không đủ để bán, không đủ vùng nguyên liệu để sản xuất.
Về chính sách để tiêu thụ sản phẩm, theo ông Hậu, cần đầu tư cho giao thông, điện, nước. Tuy nhiên, hiện chính sách về tín dụng, nhất là về vốn vay rất khó khăn. Ngoài ra, nếu không có ứng dụng khoa học công nghệ thì cũng khó phát triển được sản xuất hiệu quả.
Nói về vấn đề huy động các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn ở các địa phương, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát thừa nhận còn chưa đạt yêu cầu, nhất là huy động đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách. “Đầu tư của xã hội cho nông nghiệp, nông thôn giảm cả về tỷ trọng và giá trị thực. Đầu tư của tư nhân trong nước vào nông thôn cũng đạt thấp, giảm từ 1,48% (giai đoạn 2004 – 2008) xuống còn 0,89% (giai đoạn 2009 – 2013). Nếu loại trừ yếu tố lạm phát thì tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn trong khoảng 3 năm gần đây hầu như không tăng”, Bộ trưởng cho biết.
Trong khi đó, đầu tư cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp cũng còn thấp so với yêu cầu, mới được khoảng 0,25% GDP nông nghiệp. Cùng với đó, nghiên cứu và chuyển giao khoa học còn dàn trải, ít có đột phá tạo ra chuyển biến mạnh trên diện rộng về năng suất, chất lượng. Hệ thống chế tạo máy móc, thiết bị trong nước phục vụ cơ giới hóa nông nghiệp còn yếu, trên 90% máy kéo 4 bánh, máy gặt đập liên hợp phải nhập khẩu.
Mặt khác, ông Nguyễn Quốc Cường, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam cho rằng, cơ chế chính sách, quản lý khoa học còn chậm thay đổi, nhất là về cơ chế tài chính, thiếu các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực này. “Làm sao phải có chính sách ưu đãi với lực lượng nghiên cứu khoa học về nông nghiệp thì mới phát triển nhanh và bền vững”, ông Cường nói.
Chính vì những khó khăn trên, ông Lê Đình Sơn cho rằng, mỗi tỉnh phải biết cụ thể hóa và linh hoạt chính sách thiết thực với từng địa phương, phát huy thực sự quyền tự chủ của người dân. Chương trình xây dựng nông thôn mới cần khẳng định tính thường xuyên, liên tục và là khâu đột phá trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Ông Sơn đề nghị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc tái cơ cấu ngành phải gắn với giá trị gia tăng cao bởi lợi nhuận thấp thì người dân không mặn mà. Đồng thời kết hợp nâng cao thu nhập người dân thông qua thu nhập nông nghiệp. Đối với đào tạo nghề cho nông dân cần thiết thực và hiệu quả, hiện nay mới thực hiện theo kế hoạch chương trình chứ không theo nhu cầu của thị trường.
TTXVN