Nông nghiệp phát triển chưa bền vững

Trong những năm đổi mới, ĐBSCL đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, từng bước hình thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực của vùng như lúa gạo, thủy sản, trái cây. Tại đây đã hình thành một số mô hình tập trung chuyên canh lúa, cây ăn trái, thủy sản áp dụng công nghệ cao, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, tăng lợi thế cạnh tranh trên thương trường. Nhiều địa phương đã đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp. Cơ cấu cây trồng-vật nuôi được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích; phát triển mạnh mẽ về số lượng và chủng loại cây trồng, vật nuôi, mang lại lợi ích kinh tế cho người nông dân, đứng đầu cả nước về sản xuất lương thực và nuôi trồng thủy sản. Nông hộ từ “vòng vây” của "ngăn sông, cấm chợ" trong nền kinh tế bao cấp đã vươn lên trở thành những đơn vị “kinh tế nông hộ” năng động. Những tiến bộ khoa học và công nghệ ngày càng được ứng dụng nhiều hơn trong sản xuất nông nghiệp.

leftcenterrightdel
Nhân công chế biến gạo xuất khẩu sang nước ngoài tại Công ty lương thực Tiền Giang. 

Tuy nhiên, ĐBSCL đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động sâu sắc, khó lường của kinh tế thế giới và BĐKH. Việc sử dụng quá mức thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học… cũng đã ảnh hưởng đến môi trường, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của nông sản.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc nông nghiệp ĐBSCL khó cạnh tranh với các nước khu vực và trên thế giới. Theo nhận định của GS, TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ: “Nông nghiệp ĐBSCL đến nay vẫn chủ yếu sản xuất và xuất khẩu thô, giá trị thấp. Nông dân vẫn sản xuất theo hướng tự phát, manh mún, nhỏ lẻ, thiếu kế hoạch, thiếu liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ”.

Thực tế, ĐBSCL đang trong thời kỳ hội nhập, các loại hàng hóa như lúa gạo, cây ăn quả, rau màu, các sản phẩm từ chăn nuôi và thủy sản phải cạnh tranh ngày càng gay gắt, vừa trên "sân nhà", vừa trên "sân khách". Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là hiện nay, giá thành sản xuất một số loại hàng hóa còn khá cao, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế.

leftcenterrightdel
Công nhân làm việc tại nhà máy chế biến thủy sản Bianfishco.

Cùng với đó là tình trạng di dân. “Nguồn lao động ở nông thôn đang có xu hướng giảm và lão hóa, do lao động trẻ ở nông thôn có trình độ học vấn có xu hướng rời bỏ nông thôn và lao động phổ thông di dân đến làm việc tại các thành phố lớn ngày càng tăng. Đây là cản trở lớn trong phát triển sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL”, PGS, TS Lê Thanh Sang, Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội vùng Tây Nam Bộ nhận định.

Hoạch định hướng đi cho nông nghiệp

Trước những thách thức đặt ra, nền nông nghiệp ĐBSCL cần phải nhanh chóng vượt qua “bước chân lấm bùn” của kinh tế tự nhiên, tham gia vào chuỗi giá trị công nghiệp sáng tạo toàn cầu.

Theo GS, TS Võ Tòng Xuân, việc cần làm ngay lúc này là cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông nghiệp ĐBSCL phải theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. “Trước hết, cần quan tâm xây dựng, nhân rộng mô hình “cánh đồng lớn”, các vùng chuyên canh, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của nông dân, tăng cường mối liên kết “4 nhà” theo những mô hình hợp tác kiểu mới. Để tái cơ cấu ngành nông nghiệp vùng ĐBSCL, cần chú trọng giải quyết tốt vấn đề thu nhập của người nông dân. Về lâu dài phải có sự điều chỉnh căn cơ từ cơ cấu sản xuất, theo hướng phân bổ lại nguồn lực đầu tư phù hợp; gắn kết chặt chẽ từ khâu sản xuất, chế biến đến xuất khẩu, nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, đem lại hiệu quả cao hơn cho người sản xuất và kinh doanh”, GS, TS Võ Tòng Xuân chỉ rõ.

leftcenterrightdel
Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trong sản xuất lúa tại Cánh đồng lớn (An Giang).  

Theo PGS, TS Nguyễn Văn Sánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL, một trong những biện pháp trọng tâm là phải có những hành động thiết thực cấu trúc lại nền nông nghiệp vùng Tây Nam Bộ. “Vùng được xác định phát triển theo hướng nông nghiệp công nghệ cao nên phải bằng mọi cách đưa những thành tựu công nghệ vào sản xuất. Cây, con cần phải được tuyển chọn từ những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh học như di truyền chọn giống, cấy mô, cấy ghép tế bào...; tiếp đó là cơ giới hóa trong làm đất, khoa học thủy lợi, quản lý nguồn nước, cùng các kỹ thuật canh tác hiện đại. Công đoạn kỹ thuật sau thu hoạch nhằm giảm thất thoát và công nghệ chế biến để gia tăng giá trị cho thành phẩm nông, thủy sản cũng cần được đẩy mạnh hơn nữa”, PGS, TS Nguyễn Văn Sánh đề xuất.

Đối với mặt hàng lúa, gạo, Thạc sĩ Trần Hữu Hiệp, Ủy viên chuyên trách kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ đề xuất cần xem xét lại cụm từ “vựa lúa ĐBSCL” khi người nông dân chưa thể sống được với thu nhập từ cây lúa. Ngành lúa gạo vùng Tây Nam Bộ cần phát triển theo hướng gắn kết theo chuỗi giá trị lúa gạo để tạo ra thành phẩm giá trị cao thay vì sản xuất thô như hiện nay. Đã đến lúc cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các ngành công nghiệp phụ trợ, hình thành các ngành công nghiệp mới sau gạo như thực phẩm tiêu dùng (dầu ăn, sữa...); vật liệu (đánh bóng kim loại); sơn; ngành dược, mỹ phẩm; ngành công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, thủy sản... “Để làm được điều đó, cần có sự chung tay góp sức của Nhà nước ở vai trò hỗ trợ kết nối cung cầu, cung cấp thông tin thị trường quốc tế. Đối với nhà khoa học cần đưa công nghệ hiện đại đến cho nông dân, hướng nông dân vào nông nghiệp xanh công nghệ cao, thích ứng với BĐKH. Người dân cần tuân thủ nghiêm quy trình sản xuất để bảo đảm hàng hóa đạt đúng chất lượng cam kết, học hỏi nâng cao trình độ tiến tới làm chủ nền nông nghiệp kỹ thuật hiện đại”, Thạc sĩ Trần Hữu Hiệp nhấn mạnh.

Vấn đề liên kết vùng cũng là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp vùng ĐBSCL. Đề cập đến vấn đề này, GS, TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nhận định: “Trước những khó khăn và thách thức mà ĐBSCL đang gặp phải, yêu cầu cấp thiết và mang tính tất yếu là phải tăng cường các mối quan hệ, liên kết vùng cụ thể để cùng nhau đưa ra những chính sách, mục tiêu sản xuất nông nghiệp bền vững. Liên kết vùng cũng là một trong những cơ sở quan trọng để tiến hành quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu nông nghiệp vùng ĐBSCL nói riêng. Tạo được sự liên kết vùng vững chắc và thực chất sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương. Các địa phương cần biến lợi thế "tĩnh” thành lợi thế "động” trong toàn vùng, tăng tính cạnh tranh cho hàng nông sản trên thị trường trong và ngoài nước”.

Để hướng nông nghiệp vùng ĐBSCL phát triển bền vững, thì văn bản, chính sách ban hành cũng là yếu tố quan trọng. TS Nguyễn Tuấn Anh, Viện Nghiên cứu Phát triển Việt Nam, cho rằng: “Cần bỏ những văn bản, chính sách chồng chéo. Bên cạnh đó, phải hướng đến chính sách tiếp cận thị trường lồng ghép với ứng phó BĐKH”...

Bài và ảnh: THÚY AN