QĐND - Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 đến nay, dòng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đã được khơi thông nhanh chóng, góp phần thúc đẩy kinh tế trong nước tăng trưởng, giúp kinh tế Việt Nam hội nhập sâu với kinh tế thế giới.
Tác động trực tiếp và lan tỏa đến kinh tế trong nước
Theo nghiên cứu của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế-xã hội quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), đến hết năm 2014, có gần 1.600 dự án FDI tại Việt Nam, đóng góp đầu tư toàn xã hội của FDI khoảng 22-25%; đóng góp ngân sách khoảng 14-15%.
Các chuyên gia kinh tế đã khẳng định, đầu tư FDI được công nhận là một thành phần quan trọng của nền kinh tế, đóng góp trực tiếp, tích cực vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tổng thu nhập xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2005-2013, đóng góp của khu vực FDI khá ổn định, vững chắc, tăng đều trong các năm (bình quân từ 15% đến gần 20%). Doanh nghiệp (DN) FDI không chỉ trực tiếp góp vốn mà đã tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động trong nước. Từ năm 2005 đến năm 2013, DN có vốn FDI đã tạo việc làm cho 3,7 triệu lao động. Cơ cấu GDP theo ngành trong giai đoạn này cũng có sự chuyển biến tích cực theo hướng giảm dần nông nghiệp (giảm từ 22% xuống 18%) và tăng dần công nghiệp, dịch vụ. Đóng góp thu nộp ngân sách của các DN vốn FDI đã tăng từ mức 5,2% năm 2000 lên 14,3% năm 2014.
 |
Các KCN, khu kinh tế được phát triển gắn với quá trình thu hút đầu tư FDI. Trong ảnh: Một góc khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh. Ảnh: QUANG PHƯƠNG. |
Bà Mai Thị Thu, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế-xã hội quốc gia khẳng định: Tác động của DN sử dụng vốn FDI đến kinh tế Việt Nam rõ nhất là huy động vốn cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, còn có tác động từ nhiều khía cạnh như: Việc làm, cơ hội tiếp cận công nghệ mới, chuyển giao công nghệ… tác động gián tiếp, lan tỏa, lôi cuốn, tạo những cơ hội mới cho các DN trong nước thông qua kênh liên kết; tạo ra những ngành nghề kinh doanh mới, mở ra những cơ hội cho Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà đầu tư FDI mang lại, vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế chưa được khắc phục. Thực tế cho thấy, các DN vốn FDI chủ yếu khai thác tài nguyên thiên nhiên, ít công nghệ nguồn. Có đến 30% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ liên tiếp trong 2-3 năm, kê giả chi phí đầu vào tăng cao để báo lỗ, chuyển giá và trốn thuế. Cơ cấu đầu tư FDI chưa cân đối, mới tập trung ở một số ngành công nghiệp, xây dựng và ở một số địa phương có lợi thế về hạ tầng và nhân lực. Một số DN FDI chiếm thế độc quyền trên thị trường, một số khác có khả năng kiểm soát ngành đã làm “méo mó” thị trường…
Doanh nghiệp trong nước chưa “hấp thụ” hết từ đầu tư FDI
Những năm qua, các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế được phát triển gắn liền với quá trình thu hút vốn FDI. Cả nước hiện có 295 KCN, thu hút được gần 6000 dự án FDI với hơn 100 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm hơn 70% tổng vốn đầu tư đăng ký và tạo việc làm cho gần 2,4 triệu lao động.
Đánh giá về tác động của các DN FDI và mối liên kết giữa DN trong nước với DN FDI, ông Vũ Quốc Huy, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý các khu kinh tế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) khẳng định: Các DN FDI có đóng góp rất lớn vào phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, xét ở góc độ vi mô và tác động liên kết của các DN FDI với các DN trong nước thì chưa tương xứng với tiềm năng. Liên kết giữa 2 loại hình DN này còn yếu và mang tính tự phát, chưa có hoạt động để thúc đẩy liên kết. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do các DN trong nước còn yếu về năng lực, trình độ quản lý, kỹ năng quảng bá tiếp cận thị trường.
Hai DN FDI Canon (Nhật Bản) và Samsung (Hàn Quốc) là dẫn chứng điển hình cho thực trạng trên. DN Canon đầu tư vào Việt Nam từ năm 2001, tổng vốn đầu tư đến nay là hơn 300 triệu USD; hiện có khoảng hơn 100 nhà cung cấp sản phẩm, linh kiện cho Canon. Tuy nhiên, số lượng nhà cung cấp là DN trong nước chỉ chiếm gần 10% trong tổng số các nhà cung cấp. DN Việt Nam chỉ tham gia ở những lĩnh vực đơn giản, những linh kiện đòi hỏi cao phải nhập khẩu hoặc được cung cấp từ các DN FDI khác. Với Samsung, tỷ lệ DN trong nước cung cấp cho Samsung chỉ chiếm dưới 10%. Cả 2 DN này đều mong muốn các DN Việt Nam cung cấp sản phẩm, linh kiện và sẵn sàng tư vấn hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ để các DN trong nước đáp ứng yêu cầu của 2 DN này. Thế nhưng, ở nước ta hiện nay vẫn chưa hình thành hệ thống pháp luật đầy đủ, chưa có chính sách riêng để thúc đẩy hoạt động liên kết.
Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI
Có thể nói, kể từ khi Luật Đầu tư năm 2005 ra đời đã tạo sân chơi bình đẳng cho cả DN trong nước và DN FDI khi các quy định về thuế, đất đai, thủ tục đều được áp dụng chung. DN FDI đã có những thủ tục, cơ chế minh bạch, thông thoáng hơn nhiều về thông tin kết nối để có thể tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Qua các kết quả nghiên cứu, DN FDI có bước phát triển tốt và tác động tích cực đến kinh tế Việt Nam.
 |
Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH KSD Vina (100% vốn đầu tư Hàn Quốc) trong KCN Điềm Thụy (Thái Nguyên). Ảnh: TTXVN. |
Các DN trong nước và DN FDI kết nối với nhau thông qua quá trình hợp tác, chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, thách thức mà các DN trong nước đang gặp phải trong quá trình liên kết là khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đòi hỏi yêu cầu cạnh tranh rất cao về các tiêu chuẩn chất lượng, giá cả và công nghệ. Để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu này thì khả năng tài chính và năng lực quản trị của DN trong nước chưa thể đáp ứng, thậm chí có nguy cơ phá vỡ sự ổn định hiện có. Trên thực tế, việc hỗ trợ để các DN liên kết với nhau là quá trình rất lâu dài, nhưng ở nước ta hiện nay mới bắt đầu.
Ông Vũ Quốc Huy cho rằng, để tăng cường liên kết giữa 2 loại hình DN này thì cần có cơ chế chia sẻ thông tin, hỗ trợ dịch vụ giữa hai bên cũng như tăng cường cầu nối chia sẻ thông tin của Nhà nước về tư vấn, nghiên cứu, khoa học công nghệ… Chính phủ cần sớm xây dựng các mô hình liên kết đã được triển khai trên thế giới. Mặt khác, cần phải có cơ chế bảo đảm trách nhiệm của các DN FDI trong việc kết nối với DN trong nước.
Các chuyên gia kinh tế nhận định, đối với DN trong nước, ngoài việc thúc đẩy liên kết, thu hút FDI thì quan trọng hơn là phải chuẩn bị tốt cho hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình chuẩn bị cho hội nhập, thực hiện các cam kết quốc tế, thì việc nâng cao năng lực của DN trong nước là điều rất quan trọng. Bởi vì, chỉ có nâng cao năng lực DN trong nước thì mới tăng được khả năng hấp thụ nguồn vốn FDI. Đồng thời, quá trình tăng năng lực cạnh tranh, tăng năng lực cung ứng của DN trong nước sẽ làm cho mối liên kết với DN FDI chặt chẽ hơn, tác động lôi cuốn hơn khi thu hút FDI. Vì vậy, Chính phủ cần tiếp tục có những chính sách phù hợp để thúc đẩy liên kết; có cơ chế tốt về cơ sở hạ tầng và giải pháp chính sách để hướng dòng vốn FDI đến nơi mà chúng ta mong muốn.
Không một quốc gia nào muốn phát triển mà không mở cửa, hội nhập. Mở cửa để dòng vốn FDI khơi dậy đầu tư trong nước, khơi dậy các nguồn lực phát triển. Năm 2015 được Chính phủ xác định là “Năm vì doanh nghiệp”. Với mục tiêu đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải thiện môi trường kinh doanh để cộng đồng DN, trong đó có DN FDI thực sự trở thành động lực cho phát triển, cuối năm 2014 vừa qua, Luật Đầu tư (sửa đổi) và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua và sẽ có hiệu lực vào tháng 7-2015. Bên cạnh đó, năm 2015 dự báo Việt Nam sẽ hoàn tất nhiều thỏa thuận đàm phán từ các hiệp định thương mại song phương, đa phương và đáng chú ý hơn là sự hình thành của Cộng đồng Kinh tế ASEAN… hoạt động của DN Việt Nam nói chung và DN FDI nói riêng được kỳ vọng sẽ có chuyển biến tích cực trong thời gian tới.
MINH MẠNH