QĐND- Nguồn nhân công giá rẻ và dồi dào luôn là ưu thế của nước ta trong thu hút đầu tư, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, lợi thế đó đang có nguy cơ mất dần do năng suất lao động (NSLĐ) đang bị đánh giá ở mức thấp so với khu vực. Làm gì để tăng NSLĐ đang là bài toán khó đặt ra với các cơ quan chức năng và người lao động nước ta.
NSLĐ thấp không chỉ do trình độ lao động
Năng suất lao động được tính toán bằng công thức: Kết quả đầu ra chia cho số lao động. Kết quả đầu ra có thể được tính bằng số hiện vật hay giá trị sản phẩm. Với cách tính như vậy, ngành nào có nhiều lao động nhưng lại có giá trị gia tăng thấp thì NSLĐ thấp.
Theo công bố của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), NSLĐ của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thấp hơn Xin-ga-po 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần, kém Hàn Quốc 10 lần. Theo đánh giá của các chuyên gia, có nhiều yếu tố tác động đến NSLĐ của Việt Nam, trong đó trước tiên phải nói đến khoa học và công nghệ (KH&CN). Bên cạnh đó phải kể đến cơ cấu kinh tế làm ảnh hưởng đến NSLĐ. Nếu như Việt Nam có nhiều ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động mà giá trị gia tăng thấp thì dẫn đến NSLĐ của toàn xã hội thấp. Ở nước ta, môi trường làm việc chưa thực sự khuyến khích người lao động nỗ lực hết mình để nâng cao NSLĐ. Thị trường cũng là yếu tố làm NSLĐ bị giảm, nhiều ngành, nghề có thị trường đầu ra không ổn định dẫn đến sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Khi chia giá trị gia tăng cho số lao động trong những ngành nghề đó thấp sẽ dẫn đến NSLĐ thấp. Bên cạnh đó, các rào cản về thủ tục hành chính chưa tập trung tạo điều kiện tối đa cho vấn đề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ông Dương Đức Lân, Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) nhận định, NSLĐ là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập. Một trong những nguyên nhân dẫn đến NSLĐ thấp là tỷ lệ lao động trong nông nghiêp còn cao, trong khi đó trình độ lao động trong nông nghiệp nói chung còn thấp. Lao động có chuyên môn kỹ thuật, có bằng cấp trong nông nghiệp mới chỉ đạt 3,51%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, NSLĐ của Việt Nam năm 2013 ở các ngành đạt 68,7 triệu đồng/người, trong khi đó nông nghiệp chỉ đạt 27 triệu đồng/người, bằng 1/3 so với bình quân chung của cả nước. Năm 2014, cả nước có khoảng 47% lao động vẫn làm trong nông nghiệp nhưng chỉ tạo ra lượng GDP ước đạt 14%.
Khoa học và công nghệ là yếu tố then chốt làm tăng NSLĐ
Một trong những điểm mấu chốt khiến NSLĐ của Việt Nam không cao như các nước là do đầu tư khoa học và công nghệ (KH-CN), cấu tạo hữu cơ (tỷ lệ máy móc trên đầu người) không đủ lớn nên không đáp ứng được năng suất kỳ vọng. Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong cho rằng, cấu tạo hữu cơ là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định đến NSLĐ. Giữa các phương thức sản suất khác nhau không phải sản xuất ra cái gì mà sản xuất bằng cái gì. Nếu các doanh nghiệp chỉ tận dụng lao động giá rẻ, giản đơn thì NSLĐ sẽ rất thấp. Theo thống kê, từ năm 2001 đến 2011, tỷ lệ đầu tư cho KH-CN ở Việt Nam chỉ tăng từ 0,48% lên 0,51% (trong khi đó, ở một số nước trong khu vực gia tăng mạnh đầu tư cho KH-CN). Đó là chưa kể trên thực tế, ngân sách chi cho KH-CN có hơn 80% chi cho nuôi dưỡng bộ máy, cho hoạt động thường xuyên chứ không phải đầu tư trực tiếp vào nghiên cứu thiết bị hay phát minh sáng kiến.
 |
Đảo tạo nghề cho nông dân để góp phần tăng năng suất lao động ở huyện Thạch Thành (Thanh Hóa). Ảnh: TTXVN
|
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong nhận định: Với việc thành lập Hội đồng Phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh, cho thấy chúng ta đã nhìn thấy điểm nút thắt của nền kinh tế trong thời gian tới. Việc định hướng tập trung vào các ngành kinh tế có hàm lượng giá trị cao tạo những điểm nhấn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cần chuyển dịch cả ở 3 ngành kinh tế, đòi hỏi hàm lượng KH-CN cao hơn và có được những giá trị gia tăng cao hơn. Khi tập trung được vào những lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao sẽ tạo ra GDP rất cao và chia cho tỷ lệ lao động thấp thì sẽ tạo ra NSLĐ cao.
Riêng với ngành nông nghiệp, để tăng NSLĐ trong ngành kinh tế này ngoài việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn thì cần phải thu hút doanh nghiệp tham gia vào nông nghiệp. Để làm được điều đó, trước hết phải có chiến lược phát triển nông nghiệp theo kiểu công nghiệp hóa, có những quy hoạch và chính sách để tạo ra khu công nghiệp sản xuất nông nghiệp, áp dụng máy móc vào một quy trình khép kín, từ đó doanh nghiệp sẽ tự tìm thấy vị trí của mình. Người nông dân, doanh nghiệp và sau đó là các tổ chức sẽ tạo ra chuỗi sản phẩm từ cánh đồng cho đến bàn ăn và hướng đến xuất khẩu. Như vậy giải pháp tốt nhất là phải có chiến lược phát triển nông nghiệp với những quy hoạch để tạo ra những vùng sản xuất chuyên nghiệp được áp dụng công nghệ.
Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về quyền góp đất, quyền thuê đất, các hợp đồng bảo đảm hợp tác với nông dân cũng như với các tổ chức khác để bảo đảm sự gắn kết trên cơ sở pháp lý, có như vậy doanh nghiệp mới yên tâm đầu tư sản xuất. Ngoài ra, những chính sách để hỗ trợ cho doanh nghiệp cung ứng cho nông dân liên quan đến yếu tố đầu vào như thu mua, chế biến, tạo thương hiệu và bảo đảm thị trường xuất khẩu ổn định cũng rất cần thiết, đòi hỏi Nhà nước có những chính sách tương thích để tạo ra điều kiện thuận lợi.
Phát triển mạnh kinh tế tư nhân
Xu hướng chung của thế giới hiện nay là chuyển trọng tâm, động lực chính của kinh tế đất nước sang khu vực kinh tế tư nhân-một trong những nơi sẽ tạo ra nhiều động lực, tiềm năng cũng như hiệu quả nhất trong vấn đề sử dụng nguồn lực để phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân khi phát triển tốt sẽ tạo ra được những tác động tích cực như: Tạo ra thị trường đòi hỏi người lao động phải có trình độ rất cao; áp dụng những công nghệ quản trị về nhân lực, kỹ thuật để tạo ra năng suất phù hợp. Bên cạnh đó, cạnh tranh lành mạnh buộc các doanh nghiệp phải nâng cao cấu tạo hữu cơ để từ đó làm tăng NSLĐ mạnh mẽ thay vì giới hạn tự nhiên của lao động chân tay.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, Nhà nước cần nhìn nhận bình đẳng hơn vị thế của kinh tế tư nhân để tạo ra môi trường thuận lợi nhất, tăng tự do hóa kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cũng cần khuyến khích những hoạt động liên kết của các doanh nghiệp để tạo ra sức mạnh tập thể cũng như tạo ra hiệu ứng năng suất tốt hơn. Bên cạnh đó, tăng cường thông tin từ thị trường, đào tạo nhân lực sẽ tạo điều kiện để tư nhân giảm thiểu các chi phí, có ngay đội ngũ trình độ cao để lựa chọn, phát triển những dự án họ mong muốn. Việc nâng cao hiệu quả bộ máy công quyền, giảm sự nhũng nhiễu, gia tăng hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thương hiệu, đầu tư ra nước ngoài, nhập thiết bị đòi hỏi "bàn tay" của Nhà nước rất lớn.
Nước ta đang đi đúng dòng chảy của thời đại khi chủ động mở cửa, hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn để từ đó có những động lực mới, đặc biệt là tăng NSLĐ. Trong quá trình này có cả những thuận lợi và thách thức, tạo ra áp lực cũng như các cơ hội. Để xử lý vấn đề này cần có một loạt giải pháp đồng bộ để nâng cao NSLĐ. Phải đổi mới, phát triển thị trường toàn diện và thực hiện tốt các cam kết hội nhập. Cạnh tranh thị trường mạnh mẽ để doanh nghiệp buộc phải coi NSLĐ là công cụ chiến thắng chứ không phải từ lợi thế độc quyền, bao cấp.
MINH MẠNH