III. Nhận thức rõ hơn bản chất và vai trò tất yếu của kinh tế hợp tác qua các điển hình HTX thành công của Việt Nam
Quá trình 60 năm hình thành và phát triển của kinh tế hợp tác tại nước ta đã hình thành nhiều điển hình ở các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau. Trong giai đoạn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và cạnh tranh toàn cầu hiện nay, có thể nêu một ví dụ trong nông nghiệp. Hợp tác xã chăn nuôi Quý Hiền thành lập năm 2010, gồm 24 hộ chăn nuôi gia cầm, lợn ở 10 xã trong huyện Bảo Thắng, Lào Cai. Vốn điều lệ khi thành lập là 4,76 tỷ đồng, mỗi xã viên góp 15 triệu đồng bằng tiền mặt, còn lại phải góp các tài sản khác như đất, ô tô vận tải trị giá tối thiểu 135 triệu đồng không phải để HTX sử dụng, mà vẫn do xã viên tự sử dụng, song khi cần thì HTX có thể đem thế chấp để vay vốn cho chính xã viên đó hoặc cho HTX. Tất cả các hộ xã viên đều trực tiếp sản xuất, HTX làm những việc mà các hộ xã viên không tự làm được, hoặc làm được nhưng không hiệu quả. Sản phẩm của HTX là các dịch vụ: Cung cấp vật tư cho xã viên (mỗi năm hơn 3000 tấn thức ăn, 50.000 gà giống, hơn 2000 lợn giống) và tiêu thụ sản phẩm cho xã viên (hơn 1000 tấn gà lông, 200 tấn lợn hơi, hơn 6 triệu quả trứng với doanh số hằng năm khoảng 60 tỷ đồng). HTX hoạt động theo phương thức lấy đơn vị hộ làm đơn vị hạch toán kinh doanh, các hộ tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất của mình, các hộ chỉ chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ tài chính phát sinh với hộ mình như: Trả tiền cho vật tư mà HTX cung cấp, trả lãi và vốn vay mà HTX vay cho mình. Những việc các hộ nông dân làm không hiệu quả bằng HTX là: Mua vật tư cho sản xuất, kinh doanh trên thị trường, vay vốn cho sản xuất, kinh doanh, tổ chức dạy nghề cho nông dân, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Nếu nông dân tự mua thức ăn cho gà, lợn ở các cơ sở bán thức ăn chăn nuôi lẻ thì vừa không có điều kiện kiểm tra chất lượng thức ăn, vừa mua đắt vì mua số lượng ít. Nhưng HTX mua thức ăn gia súc, gia cầm với số lượng lớn, thì mua trực tiếp tại các công ty có uy tín như ở Công ty Japfa cho gà trắng, Công ty RTD cho gà màu và ở Công ty DEHEUS cho lợn. Một bao thức ăn cho lợn nếu mua ở đại lý bán lẻ thì phải trả 460.000 đồng, nhưng HTX mua trực tiếp tại công ty và bán lại cho xã viên chỉ 422.000 đồng, tức giảm được hơn 8% chi phí thức ăn, làm cho thu nhập của người nông dân tăng tương ứng. Nếu nông dân tự mua con giống gà, lợn ở các cơ sở giống tư nhân, họ không có khả năng kiểm tra chất lượng giống. Còn HTX mua con giống với số lượng lớn nên mua tại các công ty có uy tín, bảo đảm chất lượng mà giá lại thấp hơn. Tương tự như vậy, HTX mua thuốc thú y sẽ bảo đảm chất lượng và giá thấp hơn là các hộ nông dân tự mua. Để theo kịp tiến bộ khoa học kỹ thuật về thức ăn, thuốc thú y và con giống, từng hộ cá thể không thể có điều kiện tiếp cận các khóa huấn luyện, vì khuyến nông của nhà nước không đủ lực lượng và kinh phí để chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho từng hộ nông dân. Đối với HTX, do mua thức ăn, thuốc thú y với số lượng lớn, HTX đã đặt điều kiện các công ty cung cấp thức ăn và thuốc thú y mỗi năm phải tập huấn ít nhất hai lần về các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho các xã viên. Vì vậy, các xã viên được cập nhật kịp thời kiến thức, kỹ năng mà HTX lại không phải tốn tiền cho tập huấn. Việc tiêu thụ sản phẩm của các hộ nông dân thông qua HTX hiệu quả hơn nhiều so với các hộ nông dân tự làm. Các hộ nuôi cá thể không thể ký hợp đồng bán sản phẩm cho các công ty mua gia cầm, gia súc hoặc các khách sạn, vì sau khi bán gia cầm hoặc gia súc phải 3-6 tháng sau mới lại bán được lứa tiếp theo, trong khi các công ty, khách sạn cần mua hằng ngày. Ngoài ra, các hộ không thể chứng minh được sự đồng đều về chất lượng sản phẩm (liên quan đến giống, thức ăn, thuốc thú y) và kiểm soát an toàn thực phẩm nên các công ty, khách sạn không sẵn sàng mua. Còn HTX với hàng chục hộ xã viên có thể ký hợp đồng cung cấp gia cầm, gia súc hằng ngày và cam kết bảo đảm chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm. Cũng vì lý do trên mà khi các hộ nông dân riêng lẻ đi vay vốn, rủi ro đối với các tổ chức tín dụng cao nên họ sẽ chỉ cho vay ít và lãi suất cao. Còn HTX, với việc bảo đảm chất lượng sản phẩm, khả năng tiêu thụ ổn định và tài sản thế chấp của các HTX lớn hơn, sẽ dễ tìm được nguồn vốn lớn hơn với lãi suất thấp hơn cho các hộ xã viên.
 |
|
Ảnh minh họa/Báo Hải quan
|
Những việc các hộ xã viên không làm được là: Quy hoạch đàn nuôi phù hợp với nhu cầu thị trường và xây dựng các quỹ, nhất là quỹ dự phòng rủi ro. Các hộ cá thể không có khả năng dự báo nhu cầu thị trường và do không có khả năng bán bằng các hợp đồng với các công ty hoặc khách sạn nên không có căn cứ để quy hoạch đàn nuôi của mình. Nếu nuôi nhiều, vượt quá nhu cầu thị trường, giá rớt sẽ lỗ. Còn HTX, thông qua nghiên cứu thị trường và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các công ty, khách sạn nên sẽ quy hoạch đàn nuôi của các hộ sao cho phù hợp với các hợp đồng đã ký. Thông qua đóng góp của các xã viên, HTX thành lập quỹ dự phòng rủi ro. Khi các hộ xã viên gặp rủi ro mà không phải do lỗi của họ, được cán bộ kỹ thuật của HTX và Ban kiểm soát xác nhận, thì được cho vay 80% mức thiệt hại với lãi suất bằng 0% để nuôi lại đàn mới, thời hạn trả là 3 lứa nuôi (12 tháng đối với gà và 18 tháng đối với lợn). Với cách làm như trên, HTX chăn nuôi Quý Hiền thực sự đã giúp các hộ xã viên giảm chi phí và nâng cao chất lượng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm ổn định với giá cao hơn, vì vậy vừa làm cho sản phẩm của xã viên có tính cạnh tranh cao hơn, vừa nâng cao thu nhập cho hộ xã viên, đồng thời kích thích tính sáng tạo, tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các hộ xã viên.
Qua phân tích phương thức hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh của HTX chăn nuôi Quý Hiền ta thấy HTX không xóa bỏ, không làm thay vai trò chủ hộ sản xuất của người nông dân tự hạch toán mà bằng việc cung cấp các dịch vụ đầu vào với giá thấp hơn, chất lượng cao hơn, thực hiện quy hoạch sản xuất nông nghiệp, tổ chức tiêu thụ sản phẩm của hộ xã viên, HTX đã làm sản xuất, kinh doanh của các hộ hiệu quả hơn, thu nhập cao hơn, cạnh tranh thắng lợi trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và hội nhập quốc tế. Có thể gọi đây là một HTX kiểu mới ở nước ta. Điều này hoàn toàn phù hợp với 9 nguyên tắc thành lập và hoạt động của các HTX trên thế giới đã được tổng kết qua thực tiễn 150 năm qua.
Ngoài mô hình HTX, thực tế đã xuất hiện mô hình liên kết trực tiếp giữa người nông dân và doanh nghiệp qua hợp đồng, trong đó doanh nghiệp trực tiếp cung ứng các yếu tố đầu vào cho hộ nông dân và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho hộ, song những người nông dân không liên kết hỗ trợ nhau. Sau 4 năm tổ chức thực hiện, đến năm 2014, Công ty Bảo vệ thực vật An Giang (BVTVAG) đã ký hợp đồng liên kết với hơn 28 nghìn hộ nông dân với diện tích trồng lúa lên đến 65,7 nghìn héc-ta (bình quân 2,3 ha/hộ). Từ năm 2006, BVTVAG đã bắt tay xây dựng mô hình Cánh đồng lớn để phục vụ nông dân. Mô hình này đã giúp nông dân giảm giá thành sản xuất, giảm bớt nỗi lo về đầu ra cho hạt lúa, nâng cao thu nhập. Hộ nông dân phải cam kết sử dụng giống lúa, phân bón, hóa chất mà Công ty BVTVAG cung cấp, thực hiện quy trình canh tác theo hướng dẫn của công ty. Nông dân được cung ứng giống, thuốc, phân bón và trả chậm với lãi suất 0% đến cuối vụ, được hỗ trợ miễn phí các khoản bao bì, vận chuyển, sấy và bao tiêu lúa theo giá thị trường. Công ty có một lực lượng 1.300 cán bộ kỹ thuật “3 cùng” (có trình độ trung cấp, cao đẳng về nông nghiệp) hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, quản lý chất lượng, hỗ trợ thu hoạch cho bà con nông dân. Bình quân một cán bộ “3 cùng” hướng dẫn, hỗ trợ 20-25 hộ nông dân. Nông dân được gửi lúa trong kho của Công ty BVTVAG 30 ngày không tính phí. Nông dân ghi chép sổ nhật ký đồng ruộng để hạch toán chi phí sản xuất, giúp truy xuất được nguồn gốc, yếu tố then chốt để nâng cao giá trị thương hiệu gạo khi ra thị trường.
Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật, gia tăng các biện pháp quản lý trong canh tác, hiệu quả kinh tế của người nông dân đã được tăng lên rõ rệt. So sánh với nông dân không có hợp đồng liên kết với công ty trong vùng cùng thời điểm cho thấy: Năng suất của nông dân có liên kết với công ty tăng từ 400-500kg lúa/ha; giá thành sản xuất lúa giảm từ 800.000-1.000.000 đồng/ha;
Tác dụng tổng hợp của các kết quả và hỗ trợ của HTX nói trên là chi phí sản xuất giảm và thu nhập cao hơn nông dân không tham gia liên kết từ 3-5 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, Công ty BVTVAG nhận thấy, nếu tiếp tục tăng quy mô liên kết trực tiếp với hàng vạn hộ nông dân như hiện nay thì công ty sẽ gặp mâu thuẫn giữa quy mô quản lý và năng lực quản lý, chi phí quản lý nên công ty không thể tăng mãi số hộ nông dân hợp đồng liên kết và tối đa chỉ có thể hỗ trợ và bao tiêu được khoảng 4% sản lượng lúa của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mặt khác, trong mô hình này, hàng vạn hộ nông dân dựa vào sự chỉ dẫn tại đồng ruộng của hàng nghìn cán bộ “3 cùng”, còn bản thân họ do chưa liên kết trực tiếp với nhau nên việc phát huy sức mạnh sáng kiến, khả năng tự quản, tự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các hộ nông dân còn hạn chế. Do đó, chính Công ty BVTVAG đã đề xuất cần xây dựng các HTX kiểu mới, do người nông dân tự thành lập, tự quản, và họ sẽ ký hợp đồng liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với Công ty BVTVAG với các điều kiện tương tự như hiện nay. Đối với công ty, nhờ số lượng đối tác giảm đi đáng kể, từ hàng vạn hộ nông dân còn vài trăm HTX, công ty có thể hỗ trợ tốt hơn và giảm chi phí quản lý. Còn người nông dân thì khi họ tự chịu trách nhiệm đối với toàn bộ quá trình sản xuất, họ hưởng toàn bộ lợi ích từ đây thì họ sẽ phát huy mọi sáng tạo, gắn bó với đồng ruộng của mình để có thu nhập cao nhất. Ngoài ra, việc thành lập HTX sẽ giúp tạo thêm việc làm ở nông thôn, gia tăng thu nhập thông qua việc các hộ xã viên tham gia nhiều khâu hơn trong mô hình hợp tác. Nông dân sản xuất lúa 1 năm 2 vụ trong khoảng thời gian từ 6-7 tháng, thời gian nông nhàn còn lại thì chỉ có thành lập hợp tác xã mới có điều kiện tạo thêm ngành nghề khác cho xã viên. HTX cũng sẽ giúp các hộ nông dân giải quyết những khó khăn nhỏ lẻ, hằng ngày mà đội ngũ kỹ thuật viên “3 cùng” ít ỏi sẽ không thể đảm trách được hết, nhờ đó các hộ nông dân có năng suất cao hơn, giảm được chi phí, còn công ty có thể giảm bớt lực lượng “3 cùng”, giảm chi phí cho công ty hoặc sử dụng họ vào các nhiệm vụ khác.
Vai trò bảo vệ quyền lợi của các hộ nông dân qua phương thức HTX còn thể hiện ở khả năng tự quản lý, chủ động tìm đối tác để hợp tác sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Nếu một doanh nghiệp ký hợp đồng với hàng vạn nông dân để cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm, vì lý do nào đó mà nâng giá cung cấp đầu vào, giảm giá tiêu thụ sản phẩm thì người nông dân vẫn không có cách nào khác là phải chấp nhận các điều kiện này cho đến khi tìm được một doanh nghiệp khác sẵn sàng ký các hợp đồng hợp tác với điều kiện thuận lợi hơn. Còn nếu đối tác của doanh nghiệp là các HTX, thì khi doanh nghiệp thay đổi các điều kiện hợp tác cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm bất lợi cho người nông dân, HTX có thể chủ động tìm các doanh nghiệp khác để đàm phán và ký kết hợp đồng cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm, hoặc thậm chí có thể ký hợp đồng xuất khẩu trực tiếp.
IV. Hợp tác xã kiểu mới - giải pháp đột phá phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện nay
Sau 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển hết sức ngoạn mục. Nhiều cây trồng, vật nuôi có năng suất sinh học vào loại cao nhất thế giới như: Cá tra, cà phê, tiêu, điều, cao su, chè, lúa, dừa,... Là một nước có diện tích đất nông nghiệp không lớn, song Việt Nam đã xuất khẩu nhiều sản phẩm như: Cá tra, cà phê, tiêu, điều, gạo, chè, thủy sản, cao su thuộc tốp 5 nước đứng đầu thế giới. Kết quả trên có được là nhờ: (1) Sự năng động, sáng tạo, chịu khó của người nông dân trong phương thức sản xuất hộ, được nhà nước giao quyền sử dụng đất lâu dài; (2) Sự hỗ trợ của hệ thống khuyến nông từ Trung ương tới xã; (3) Hỗ trợ của Nhà nước để phát triển hệ thống thủy lợi; (4) Việc áp dụng các giống mới nhập ngoại và do trong nước sản xuất; (5) Hệ thống cung cấp các yếu tố đầu vào nông nghiệp có tính công nghiệp và hiện đại như: Phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, máy móc làm đất, gặt, máy bơm, máy sấy,... (6) Hệ thống thu mua tư nhân bao phủ tới từng xã; (7) Các chính sách của Nhà nước và địa phương hỗ trợ nông dân vay vốn để mở rộng và hiện đại hóa sản xuất, dạy nghề cho nông dân; (8) Các phong trào thi đua sản xuất giỏi do các đoàn thể triển khai.
Hệ thống sản xuất nông nghiệp của Việt Nam với 8 yếu tố cấu thành nêu trên phát huy hết tác dụng trong 30 năm qua. Khoảng 5 năm gần đây, nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển về số lượng, song hầu như không có tiến bộ về chất lượng. Với HTX kiểu mới, nông nghiệp Việt Nam có khả năng chuyển sang một giai đoạn phát triển mới về chất, có tính đột phá, vì nó khắc phục được các yếu kém, cản trở kéo dài suốt 30 năm qua:
1. Năng suất sinh học tăng nhanh và cao, song thu nhập của người nông dân tăng chậm và thấp
Đối với các hộ nông dân, thu nhập thấp khi chi phí đầu vào cao và giá bán đầu ra thấp. Giá mua đầu vào của các hộ nông dân cao vì một hộ thì mua với số lượng ít, không có khả năng đàm phán để mua rẻ hơn và không có nhiều doanh nghiệp bán các yếu tố đầu vào để người nông dân có cơ hội lựa chọn (có khoảng 7-8 công ty cung ứng mỗi loại đầu vào chủ yếu như thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, hóa chất), do đó các doanh nghiệp dễ dàng thỏa thuận để nâng giá bán. Hộ nông dân đơn lẻ không có sự lựa chọn nào khác là phải mua giá cao. Khi hộ nông dân tự bán sản phẩm đơn lẻ trên thị trường, thì cũng không có khả năng đàm phán với thương lái hoặc doanh nghiệp thu mua, mặt khác số doanh nghiệp thu mua chủ yếu sản phẩm nông sản xuất khẩu không nhiều (trên dưới 10 đơn vị lớn), nên họ cũng dễ dàng thỏa thuận để dìm giá mua thấp. Hiện nay, thu nhập bình quân hằng tháng của một lao động trong nông nghiệp là 3 triệu đồng, bằng 70% thu nhập của một lao động công nghiệp (4,3 triệu đồng) và bằng 58% thu nhập của một lao động dịch vụ (5,2 triệu đồng). Nếu có HTX kiểu mới, với khối lượng mua đầu vào và bán đầu ra gấp từ 300 đến 500 lần so với một hộ nông dân (theo Bộ NNPTNT, bình quân 1 HTX nông nghiệp có 660 xã viên), thì khả năng đàm phán giá mua và bán với các doanh nghiệp cao hơn hẳn, đem lại thu nhập cao hơn cho người nông dân. Nếu các doanh nghiệp trung gian thỏa thuận nâng giá đầu vào, dìm giá đầu ra, thì các HTX có thể liên kết với nhau, đặt hàng với quy mô lớn trực tiếp tại các cơ sở sản xuất đầu vào, từ đó có giá mua thấp hơn và bán trực tiếp cho khách hàng cuối cùng trong nước hoặc xuất khẩu trực tiếp, sẽ có giá bán cao hơn. Khi hộ nông dân đơn lẻ bán sản phẩm, thì không thể có thương hiệu, chất lượng không đồng đều, không có xác nhận chất lượng sản phẩm, đây là lý do để các tư thương thu mua hoặc các doanh nghiệp thu mua đưa ra giá mua thấp. Nếu có HTX, với chương trình sản xuất cùng một loại giống, bảo đảm chất lượng đồng đều và có chứng nhận chất lượng thì giá bán sẽ cao hơn. Các HTX cùng loại có thể thành lập công ty cổ phần để tiêu thụ sản phẩm cho các HTX trong một vùng, khắc phục sự phụ thuộc và chèn ép của hệ thống tư thương hiện nay, tăng thu nhập cho người nông dân.
2. Điệp khúc được mùa rớt giá và yêu cầu nhà nước bao tiêu sản phẩm
Khi hộ cá thể sản xuất, họ không thể dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm ở thị trường địa phương, quốc gia và quốc tế. Họ sản xuất theo “phong trào”, cái gì nhiều người làm thì tôi cũng làm. Do đó thường dẫn đến việc cung vượt cầu, nên giá rớt là đúng quy luật. Muốn khắc phục việc này, chỉ có HTX kiểu mới và sự liên kết các HTX cùng nhóm sản phẩm mới có thể dự báo nhu cầu trong và ngoài nước. Từ đó khuyến cáo các HTX, các hộ nên sản xuất quy mô thế nào để đáp ứng nhu cầu thị trường mà không làm giá rớt nhiều, gây thiệt hại cho người nông dân. Một phương thức khác là bán sản phẩm nông nghiệp trước khi thu hoạch ở các chợ nông sản tương lai. Tuy nhiên, nếu người bán là các hộ riêng lẻ, với khối lượng sản phẩm rất nhỏ, chất lượng không được xác nhận, sản phẩm không có thương hiệu, thì các chợ sẽ không mua sản phẩm tương lai này. Khi có HTX, có thể bán với quy mô lớn, cam kết chất lượng và thương hiệu sản phẩm, từ đó làm cho giá tiêu thụ ổn định, khắc phục tình trạng được mùa rớt giá và yêu cầu Nhà nước bao tiêu sản phẩm.
3. Hàng hóa xuất khẩu giá thấp, bấp bênh vì sản phẩm từ các hộ không có thương hiệu, không đồng đều chất lượng, chủng loại, không có truy xuất nguồn gốc và không có chứng nhận chất lượng theo tiêu chuẩn được nước nhập khẩu thừa nhận
Khi hộ nông dân kinh doanh đơn lẻ, các nhà xuất khẩu không thể mua sản phẩm từ hàng vạn, hàng chục vạn hộ, lại không có thương hiệu, không truy xuất nguồn gốc, không có chứng nhận bảo đảm chất lượng, không cam kết thời gian giao hàng chính xác. Muốn hội nhập quốc tế về xuất khẩu, chỉ có qua HTX kiểu mới hoặc liên hiệp các HTX mới có thể bán hàng cùng loại sản phẩm quy mô lớn, có thương hiệu, truy xuất nguồn gốc và chứng nhận bảo đảm chất lượng.
4. Sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn, KHCN, tiếp thị ra thị trường nước ngoài, đào tạo nhân lực, xây dựng thương hiệu cho nông dân, sự liên kết của các doanh nghiệp với người nông dân không thể hiệu quả khi Nhà nước phải hỗ trợ trực tiếp một lúc cho hơn 10 triệu hộ nông dân và mỗi doanh nghiệp phải ký hợp đồng bán đầu vào, mua đầu ra cho hàng vạn hộ nông dân
Do lực lượng khuyến nông, dạy nghề, tư vấn có hạn và nhân lực của các ngân hàng chính sách, ngân hàng đầu tư phát triển, ngân hàng nông nghiệp cũng có hạn nên Nhà nước không thể đủ người hướng dẫn về KHCN, dạy nghề, xây dựng thương hiệu, tiếp thị ra nước ngoài cho từng hộ trong hơn 10 triệu hộ nông dân, các ngân hàng không thể quản lý các khoản vay của hơn 10 triệu hộ nông dân vay với quy mô sản xuất nhỏ bé, nhiều rủi ro. Khi hình thành các HTX kiểu mới, các đầu mối giao dịch với ngân hàng sẽ giảm 300 - 500 lần, HTX có thể xây dựng các điểm trình diễn cho xã viên của mình, HTX có thể đứng ra vay hoặc bảo lãnh vay cho các hộ xã viên của mình, từ đó giảm rủi ro đối với các ngân hàng, quy mô vay vì thế tăng lên còn lãi suất thì giảm. Tương tự, nếu đầu mối giao dịch của các doanh nghiệp giảm 300 - 500 lần, các doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí và rủi ro khi ký các hợp đồng bán đầu vào, mua sản phẩm của nông dân.
Tóm lại, HTX kiểu mới sẽ tạo ra động lực kép, mạnh mẽ để tạo đột phá phát triển của nông nghiệp Việt Nam hiện nay, vì: Nó vừa duy trì sự quan tâm, nỗ lực, sáng tạo cao nhất của từng hộ nông dân (trồng trọt, chăn nuôi, nghề cá,...) vì họ vẫn là người chủ đầy đủ hoạt động sản xuất nông nghiệp, đồng thời các hộ nông dân được sự hỗ trợ rất hiệu quả của HTX nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp nhận tối đa các hỗ trợ của Nhà nước, phát huy mạnh mẽ các liên kết với doanh nghiệp và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của hội nhập quốc tế về thương mại. HTX kiểu mới không những đem lại lợi ích lớn hơn nhiều cho người nông dân, mà còn đem lại lợi ích cho nhà nước-giảm chi phí và nâng cao hiệu quả của bộ máy nhà nước, lợi ích cho doanh nghiệp và ngân hàng-giảm chi phí, giảm rủi ro và lợi ích cho các nước nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam-tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực thương mại quốc tế. HTX kiểu mới sẽ tạo đột phá cho phát triển nông nghiệp Việt Nam vì nó tạo ra sự tương tác đồng hướng của 4 loại lợi ích: Lợi ích của hơn 10 triệu hộ nông dân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của các nước giao thương với Việt Nam.
GS, TS NGUYỄN THIỆN NHÂN
(Tiếp theo và hết)
Bài liên quan:
Hợp tác xã kiểu mới-giải pháp đột phá phát triển nông nghiệp Việt Nam