Nhiều cơ hội mới
Ngành dệt may Việt Nam đã có đột phá trong năm 2017 với kim ngạch xuất khẩu (KNXK) đạt hơn 31 tỷ USD, tăng 10,23% so với năm 2016. Tiếp đà năm 2017, bước sang năm 2018, dệt may hiện là mặt hàng XK đứng thứ hai, chỉ sau điện thoại, với KNXK 9 tháng năm 2018 đạt 22,6 tỷ USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, ngoài việc ổn định các thị trường truyền thống, như: Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc, các DN nội địa Việt Nam cũng đã phát triển thêm các thị trường XK mới nổi như Trung Quốc, Nga và Campuchia. Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương đưa ra dự báo, xuất khẩu cả năm 2018 của ngành dệt may có thể đạt 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch đề ra.
Đề cập tới triển vọng của ngành dệt may, Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Trần Thanh Hải cho rằng, thời gian tới đây sẽ mở ra nhiều cơ hội và cũng đầy thách thức đối với ngành dệt may. Các hiệp định thương mại tự do mới mà Việt Nam đã ký và đang đàm phán sẽ mang lại nhiều lợi ích cho ngành dệt may Việt Nam. Trong giai đoạn 2018-2022, thuế XK của một số sản phẩm sẽ giảm xuống mức 0%, tạo nhiều cơ hội mới. Điển hình như cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu sẽ là một cú hích quan trọng cho hàng XK Việt Nam, đặc biệt là sản phẩm dệt may.
Thêm nữa hiện nay, Mỹ là thị trường XK chính của dệt may, chiếm gần 40% tổng kim ngạch. Do đó, theo các chuyên gia kinh tế, cuộc chiến thương mại Trung Quốc-Mỹ đang diễn ra hiện nay cũng có thể mang thêm các cơ hội cho dệt may Việt Nam nếu DN của chúng ta linh hoạt. Bởi trong gói hàng hóa Trung Quốc trị giá 200 tỷ USD vừa bị Mỹ áp thuế bổ sung có hàng dệt may.
Thách thức từ quy tắc xuất xứ nguyên phụ liệu
Ngành dệt may thời gian qua tăng trưởng nhanh, tuy nhiên, quy mô của các DN trong ngành vẫn chủ yếu là vừa và nhỏ, phương thức sản xuất vẫn chủ yếu là gia công, khả năng sản xuất theo thiết kế và thương hiệu còn hạn chế. Đặc biệt, hiện nay ngành phát triển vẫn chưa cân đối. Phát triển nhanh nhất là lĩnh vực may mặc, nhưng các lĩnh vực khác như kéo sợi, dệt vải, nhuộm hoàn tất, thiết kế vẫn còn bị bỏ ngỏ nên kéo giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm dệt may. “Trong bối cảnh yêu cầu truy xuất nguồn gốc hàng hóa trở thành quy định bắt buộc của nhiều thị trường nhập khẩu quan trọng thì bất cập lớn nhất của dệt may Việt Nam trong chuỗi cung ứng là khâu cung cấp nguyên, phụ liệu đầu vào. Nguyên liệu cho ngành dệt may vẫn chủ yếu là nhập khẩu, chiếm tỷ lệ khoảng 80%. Lợi thế khi tham gia các hiệp định thương mại tự do là ưu đãi về thuế, nhưng nếu muốn hưởng thuế suất bằng 0% khi xuất khẩu thì các DN phải đáp ứng được các yêu cầu rất cao, liên quan đến chứng nhận xuất xứ nguồn nguyên liệu”, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) Trương Văn Cẩm nêu rõ.
Truy xuất nguồn gốc là một trong những quy định bắt buộc của một số thị trường như Anh, Mỹ, Liên minh châu Âu (EU)… đối với hàng hóa trong nước và hàng nhập khẩu. Theo chuyên gia tư vấn của Công ty The Woolmark (Australia) Trần Văn Quyến, hiện nay, tiêu chuẩn toàn cầu về nguyên liệu cho ngành dệt may phải là nguyên liệu hữu cơ, không qua công nghệ xử lý hóa chất để không ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, do đó vấn đề truy xuất nguồn gốc giữ vai trò vô cùng quan trọng. Bước đầu quy định này có thể gây khó nhưng về dài hạn có thể giúp Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường. Có cùng quan điểm, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Chống hàng giả Việt Nam (Vina CHG) Nguyễn Viết Hồng nhấn mạnh, truy xuất nguồn gốc giúp chúng ta có thể định vị được sản phẩm trong toàn chuỗi cung ứng, giúp minh bạch thông tin. Đối với những sản phẩm lỗi, nhờ truy xuất nguồn gốc có thể thu hồi nhanh chóng và toàn diện để có thể loại bỏ hoặc điều chỉnh. Đặc biệt, yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, giúp bảo vệ được thương hiệu cho DN trên thương trường. “Các sản phẩm dệt may Việt Nam nếu thực hiện tốt yêu cầu về truy xuất nguồn gốc thì việc bước chân vào các thị trường khó tính không phải là khó. Do đó, vấn đề của ngành dệt may hiện nay là hoàn thiện khép kín chuỗi giá trị từ khâu nguyên liệu tới sản xuất, phân phối, để đáp ứng tốt quy định truy xuất nguồn gốc hàng hóa”, ông Nguyễn Viết Hồng nói.
Cần tăng đầu tư cho khâu thượng nguồn
Thời gian qua, các DN trong nước đã tập trung đầu tư vào phát triển khâu thượng nguồn (sợi, dệt, nhuộm hoàn tất), tạo ra chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, do tiềm lực về vốn, công nghệ, quản trị còn hạn chế nên các DN trong nước đang bị các DN có vốn đầu tư nước ngoài lấn lướt. Theo thống kê của VITAS, lĩnh vực dệt, nhuộm chỉ chiếm 8,3% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may, trong khi hơn 90% đầu tư vào lĩnh vực may mặc. Vì vậy, hiệp hội đề nghị cần có cơ chế chính sách khuyến khích DN đầu tư vào các khâu thượng nguồn, nhất là lĩnh vực dệt nhuộm; trong đó đề nghị các tỉnh tạo điều kiện cấp phép cho các dự án đầu tư vào dệt nhuộm có công nghệ hiện đại xử lý nước thải.
Để giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, nên chăng các doanh nghiệp trong nước cần phối hợp cùng nhau tập trung đầu tư để tái cơ cấu trong nội bộ ngành, cân đối dần các khâu từ sợi, dệt, nhuộm đến may mặc. Cùng với đó, cần tận dụng thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để nâng cao năng suất, chất lượng, đẳng cấp sản phẩm. “Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động lớn đến ngành dệt may, muốn mang lại giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng buộc ngành này phải thay đổi và đầu tư mạnh mẽ hơn cho thiết bị cũng như nhân sự, đẩy mạnh đầu tư vào thiết kế…”, ông Trần Thanh Hải gợi ý.
VŨ DUNG