Một số người đặt vấn đề: Với những doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ nắm giữ một phần vốn rất nhỏ, Kiểm toán Nhà nước có kiểm toán toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp hay chỉ kiểm toán phần vốn góp của Nhà nước?
Kiểm soát không phụ thuộc tỷ lệ vốn góp
Xuất phát từ trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước quy định tại Hiến pháp năm 2013 là kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, PGS, TS Đặng Văn Thanh, Chủ tịch Hội Kế toán, Kiểm toán, nhấn mạnh: Ở bất cứ đâu có tài sản công, sử dụng vốn Nhà nước đều thuộc đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.
Ví như tài sản công, theo quy định của pháp luật, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Như vậy, đất đai là một dạng tài sản công. Việc quản lý và sử dụng đất đai cũng thuộc đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước nếu chiểu theo đúng quy định của Hiến pháp và Luật Kiểm toán Nhà nước. Nhà nước cho doanh nghiệp thuê đất đai với mục đích sử dụng đất được nêu rất rõ. Do vậy, cần kiểm toán để xem doanh nghiệp sử dụng đất có đúng mục đích không, nếu không đúng mục đích sẽ thu hồi.
Quản lý và sử dụng đất đai cũng thuộc đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. Ảnh: TTXVN
“Có công ty chỉ cần 1% vốn đã lên tới hàng chục tỷ, nhưng có công ty 50% vốn cũng chỉ có vài trăm triệu. Cho nên, đề cập đến tỷ lệ bao nhiêu trở lên mới thuộc đối tượng kiểm toán là không hợp lý”, PGS, TS Đặng Văn Thanh nói. Ông giải thích thêm: “Kiểm toán Nhà nước không phải kiểm tra toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, mà chỉ kiểm toán xem phần vốn của Nhà nước có được sử dụng hiệu quả không, có được bảo toàn không. Đây cũng là thông lệ quốc tế”.
TS Lê Đình Thăng, Giám đốc Trường Đào tạo cán bộ kiểm toán, nêu thực tiễn quốc tế: Ở Đức, doanh nghiệp dùng 1 đồng vốn của Nhà nước cũng bị kiểm toán. Do vậy, ở các nước, doanh nghiệp rất hạn chế dùng vốn của Nhà nước vì không muốn phải chịu sự kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. “Tại sao Kiểm toán Nhà nước phải kiểm toán cả doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn? Vì Kiểm toán Nhà nước là thể chế bảo vệ quyền lợi của Nhà nước và của nhân dân. Ngay cả các doanh nghiệp không có vốn Nhà nước, nhưng thuê đất để hoạt động thì vẫn phải “đụng” đến xem họ có sử dụng đúng mục đích không, bảo đảm về môi trường không...”, TS Lê Đình Thăng nêu quan điểm.
“Không thể làm hết được”
Đồng tình với việc cần thiết phải kiểm toán cả những phần vốn Nhà nước chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn điều lệ của doanh nghiệp, PGS, TS Đinh Xuân Thảo, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp (Ủy ban Thường vụ Quốc hội), cho rằng: Dù tài sản Nhà nước trong doanh nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nhưng cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, PGS, TS Đinh Xuân Thảo cũng đề cập đến thực trạng, với lực lượng kiểm toán của nước ta như hiện nay thì ngay cả những doanh nghiệp có từ 50% vốn Nhà nước trở lên cũng chưa đủ sức để kiểm toán hết, chưa nói đến trách nhiệm kiểm toán cả những doanh nghiệp có dưới 50% vốn Nhà nước.
Để bảo đảm thực thi luật có hiệu quả, PGS, TS Đinh Xuân Thảo đề nghị cần có văn bản nêu rõ tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp sử dụng vốn Nhà nước để kiểm toán. “Những doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn càng cần có quy định rõ ràng hơn về tiêu chí để lựa chọn, không thể làm hết được”, ông Thảo phân tích. Bên cạnh đó, ông cũng kiến nghị ban hành một văn bản ở tầm nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán để có chế tài cụ thể với những doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ kết luận kiểm toán. Có như vậy, kết quả kiểm toán mới thực sự có giá trị bắt buộc thực hiện.
Trong điều kiện nhân lực và vật lực của ngành Kiểm toán Nhà nước vẫn còn hạn chế như hiện nay, ý kiến của PGS, TS Đinh Xuân Thảo là rất đáng lưu tâm. Rõ ràng, Kiểm toán Nhà nước rất khó kiểm toán được toàn bộ các doanh nghiệp có sử dụng vốn Nhà nước, dù chỉ một phần rất nhỏ, bởi đối tượng sử dụng tài chính công còn bao gồm cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể và các đơn vị sự nghiệp công. Chưa kể số lượng đối tượng sử dụng tài sản công (điển hình như đất đai) rất lớn. Do vậy, quyền lựa chọn đối tượng kiểm toán nên được quy định rõ ràng, cả về tiêu chí và tính chủ động, để Kiểm toán Nhà nước có thể kiểm toán đột xuất hoặc kiểm toán theo kế hoạch đối với bất cứ cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nào nếu thấy cần thiết. Chỉ như thế mới hạn chế được tình trạng doanh nghiệp “trắng kiểm toán”, lúc xảy ra sai phạm gây thất thoát lớn, nhiều người mới giật mình vì Kiểm toán Nhà nước chưa thể "sờ" tới những doanh nghiệp ấy…
THÙY LÂM