QĐND - Gần 10 năm nay, gỗ và sản phẩm đồ gỗ luôn nằm trong tốp các mặt hàng xuất khẩu “tỷ đô” của ngành lâm nghiệp Việt Nam và  đang có bước tăng trưởng mạnh mẽ, trở thành một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, ngành sản xuất này cũng đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức.

Tăng trưởng ấn tượng

Nếu như năm 2004, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm đồ gỗ lần đầu tiên vượt mốc 1 tỷ USD, thì đến năm 2014, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã chạm mức 6,23 tỷ USD (riêng sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu đạt 4,4 tỷ USD). Điểm ấn tượng là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gỗ và sản phẩm đồ gỗ giai đoạn 2004-2014 bình quân từ 15 đến 18,3%/ năm. Năm 2014, các thị trường xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a… Riêng hai thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản kim ngạch xuất khẩu đã chiếm xấp xỉ 50% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam (trong đó, thị trường Hoa Kỳ đạt 2,235 tỷ USD, Nhật Bản là 952 triệu USD).

Chế biến gỗ tại một nhà máy ở tỉnh Hà Tĩnh.

Theo Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN và PTNT), dự báo Việt Nam sẽ có hội lớn để mở rộng thị phần gỗ và các sản phẩm gỗ ra thị trường thế giới. Nếu có giải pháp đúng và chính sách hỗ trợ hiệu quả, Việt Nam có thể xuất khẩu đạt 15-20 tỷ USD trong vòng 10 năm tới. Bên cạnh đó, thị trường đồ gỗ nội địa Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong những năm gần đây, bình quân tiêu dùng nội địa trong 5 năm gần đây khoảng 2,25 tỷ USD. Thị trường nội địa của đồ gỗ được đánh giá là còn nhiều tiềm năng chưa khai thác. Ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP Hồ Chí Minh (HAWA) nhận xét: Cơ hội phát triển thị trường cho sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam đang rộng mở. Việt Nam đang nổi lên như “nhà máy”, “công xưởng” sản xuất đồ gỗ từ nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp (nguyên liệu gỗ có xuất xứ, Chứng chỉ quản lý rừng bền vững).

Thử thách “vượt lên chính mình”

Tuy nhiên, cả thị trường xuất khẩu và nội địa cho ngành gỗ cũng gặp những thách thức lớn. Đối với thị trường xuất khẩu, thương hiệu đồ gỗ Việt vẫn chưa có “dấu ấn”, “tên tuổi” rõ ràng, trong khi lại đang phải chịu ảnh hưởng áp đặt nhiều hàng rào kỹ thuật, nhất là đòi hỏi về nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu gỗ hợp pháp. Thời gian qua, nguồn nguyên liệu gỗ phục vụ chế biến sản xuất đồ gỗ chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu, đó cũng chính là “gót chân asin” của ngành sản xuất đồ gỗ Việt Nam. Tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu năm 2014 của Việt Nam là 2,2 tỷ USD, với các thị trường nhập khẩu gỗ chính là Lào, Hoa Kỳ, Cam-pu-chia, Ma-lai-xi-a, Đức, Phần Lan, Thụy Điển…

Đề án Tái cơ cấu ngành lâm nghiệp giai đoạn từ năm 2014 đến 2020 với các mục tiêu chính: Đến năm 2020, kim ngạch xuất khẩu gỗ và đồ gỗ phấn đấu đạt 10 tỷ USD, thị trường gỗ và đồ gỗ nội địa đạt 4 tỷ USD. (Nguồn: Tổng cục Lâm nghiệp).

Trong khi đó, lượng gỗ nguyên liệu sản xuất trong nước do chất lượng kém nên chỉ có thể chế biến dăm gỗ xuất khẩu. Theo số liệu của Tổng cục Lâm nghiệp, lượng gỗ khai thác từ rừng trồng (rừng sản xuất) những năm gần đây của Việt Nam khoảng 13-15 triệu mét khối, nhưng có tới 80% lượng gỗ này chế biến thành dăm gỗ xuất khẩu. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chất lượng gỗ rừng trồng trong nước thấp nên chưa đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất đồ gỗ xuất khẩu. Khối lượng gỗ có Chứng chỉ quản lý rừng bền vững chưa đáng kể, hiện diện tích rừng có chứng chỉ mới chỉ đạt 1,6%. Cũng cần phải nói rằng, Chứng chỉ quản lý rừng bền vững được coi như tấm “giấy thông hành” để đồ gỗ sản xuất tại Việt Nam vào các thị trường khó tính như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.

Ông Nguyễn Bá Ngãi, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp cho hay: Năm 2015, dự kiến sẽ có thêm 135.000ha rừng có Chứng chỉ quản lý rừng bền vững, đồng thời phấn đấu đưa gỗ rừng trồng vào băm dăm (sản xuất ván ép) giảm tỷ lệ xuống 52%.

Đánh giá về những khó khăn, thách thức mà ngành gỗ sẽ phải đối mặt trong thời gian tới, ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó chủ tịch HAWA cho rằng: Hiện nguồn gỗ nguyên liệu trong nước do khai thác non chủ yếu chỉ băm dăm, trong khi nhu cầu gỗ nguyên liệu hợp pháp từ rừng trồng để sản xuất, chế biến đồ gỗ ngày một tăng cao… Cùng với đó, nguồn nhân lực có trình độ tay nghề, kỹ thuật vẫn còn thiếu; doanh nghiệp vừa và lớn hiện chỉ chiếm tỷ lệ 7% trong tổng số các doanh nghiệp có đầu tư dây chuyền máy móc hiện đại, công nghiệp hỗ trợ cho ngành còn thiếu và yếu… cũng là những khó khăn đối với ngành sản xuất, chế biến đồ gỗ Việt Nam.

Xem ra, để giành được “miếng bánh” béo bở từ thị trường trong nước lẫn thị trường thế giới, ngành sản xuất, chế biến đồ gỗ sẽ còn rất nhiều việc phải làm mà trước hết là cần “vượt lên chính mình” nếu muốn thành công. Bên cạnh đó, ngành đặc thù này cũng rất cần sự hỗ trợ từ cơ chế, chính sách của Nhà nước để nâng cao chất lượng nguyên liệu gỗ từ rừng sản xuất.

Bài và ảnh: NGUYỄN KIỂM