QĐND - Làm thế nào để tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới là đề tài xuyên suốt trong Hội thảo khoa học “CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL - 30 năm nhìn lại” do Tạp chí Cộng sản, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và Thành ủy Cần Thơ phối hợp tổ chức ngày 19-5, tại TP Cần Thơ.
Nhiều thành tựu đáng khích lệ
Sau 30 năm đổi mới, ĐBSCL ngày càng khẳng định vị thế đứng đầu trong bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hàng hóa của cả nước. Hằng năm, ĐBSCL đóng góp 22% GDP của cả nước; sản xuất hơn 52% sản lượng lúa, đóng góp 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 58% sản lượng thủy sản, đóng góp khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước, cung cấp 70% lượng trái cây.
GS, TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng, tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn và tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các vấn đề chính trị-xã hội của vùng, đưa nông thôn vùng ĐBSCL tiến lên văn minh, hiện đại. Nông nghiệp vùng ĐBSCL đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, từng bước hình thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực của vùng (lúa gạo, thủy sản, trái cây). Tại ĐBSCL đã hình thành một số mô hình tập trung chuyên canh lúa, cây ăn trái và thủy sản, áp dụng công nghệ cao, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, tăng lợi thế cạnh tranh trên thương trường. Các viện, trường, trung tâm nghiên cứu tại vùng ĐBSCL đã tham gia tích cực vào việc lai tạo, cung ứng cây, con giống, vật nuôi và sản xuất các chế phẩm sinh học, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp.
Ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho biết: “Sau đổi mới khoảng 10 năm, nông nghiệp An Giang và ĐBSCL đều có sự tăng trưởng vượt bậc nhờ khai hoang phục hóa, khuyến nông, đầu tư khoa học kỹ thuật và kiểm soát lũ… Với người nông dân, họ được tự do suy nghĩ và hành động trên thửa đất của mình và được làm chủ sản phẩm do mình làm ra. "Được tự do và tự chủ" là một bước tiến dài so với những trói buộc trong 10 năm chưa đổi mới, là nguồn gốc của sự phát triển. Từ đói khổ những năm 1980, ta trở thành nước xuất khẩu gạo, cà phê, cao su, thủy-hải sản nhất, nhì thế giới, đời sống nông dân được cải thiện, tạo nguồn tích lũy xây dựng nông thôn mới. Thắng lợi này trước hết là do đổi mới quan hệ sản xuất, nông dân được giải phóng sức sản xuất và sức sáng tạo. Các quy luật kinh tế thị trường bắt đầu vận động trở lại, là sức sống mới cho nền sản xuất nói chung, cho nông nghiệp nói riêng”.
 |
|
Sau gần 30 năm thực hiện CNH, HĐH, bộ mặt nông thôn ĐBSCL đã có nhiều khởi sắc. (Trong ảnh: Cầu giao thông nông thôn tại thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau).
|
Sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng
ĐBSCL là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 33% giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước. Diện tích đất nông nghiệp toàn vùng khoảng 3,21 triệu ha, trong đó, đất trồng lúa chiếm 1,85 triệu ha, đất trồng cây ăn trái 0,22 triệu ha, đất dành cho nuôi trồng thủy sản 0,63 triệu ha, 0,22 triệu ha trồng cây công nghiệp hằng năm và khoảng 0,39 triệu ha rừng… Nhờ lợi thế của điều kiện tự nhiên, ĐBSCL trở thành vựa lúa lớn nhất của nước ta, có vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực và cung cấp lúa gạo cho thị trường thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, người dân vùng ĐBSCL vẫn còn nghèo, đặc biệt là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của vùng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, kinh tế tuy phát triển nhưng chưa thực sự bền vững.
“Kinh tế nông thôn nhìn chung vẫn mang nặng tính thuần nông, quy mô sản xuất nhỏ. Sản xuất nông nghiệp lấy kinh tế hộ làm động lực nhưng quy mô kinh tế hộ đa số là nhỏ, riêng lẻ. Nông dân sản xuất nhiều loại sản phẩm nhưng lại phân tán, manh mún, không gắn kết giữa vùng nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, vì vậy thường xuyên xảy ra tình trạng được mùa rớt giá, khi trồng, khi nuôi, khi bỏ, làm cho đời sống nhiều nông, ngư dân gặp rất nhiều khó khăn. Tăng trưởng của nông nghiệp chủ yếu theo chiều rộng bằng việc mở rộng diện tích, quy mô, áp dụng nhiều hơn đầu vào (phân bón, thuốc trừ sâu) trong khi chưa thực sự hình thành được nền nông nghiệp cao, nông nghiệp hàng hóa”, GS,TS Vũ Văn Phúc, nhận định.
Qua trao đổi, thảo luận, các đại biểu cho rằng, một trong những nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mặc dù đã được quan tâm, có những bước tiến nhất định nhưng vẫn chưa thực sự đi vào chiều sâu để phát huy hiệu quả. Những hạn chế đó thể hiện ở những mặt sau: Công nghiệp sản xuất, chế biến sản phẩm cho nông dân còn yếu kém dẫn đến năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản thấp. Các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn phát triển chậm; ngành nghề nông thôn tuy có phát triển nhưng chưa đa dạng, quy mô nhỏ, phân tán dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn nhìn chung còn thiếu, chưa đồng bộ, chất lượng hạn chế. Tỷ lệ cơ giới hóa trong thu hoạch tại ĐBSCL tuy có tăng trong những năm gần đây nhưng mới chỉ đạt 40% so với nhu cầu. Công nghệ chế biến nông sản nhìn chung còn rất lạc hậu, nhất là công nghệ chế biến rau quả, súc sản và thủy sản. Nhu cầu vốn đầu tư cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn rất lớn nhưng nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước có giới hạn.
Để nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL phát triển nhanh và bền vững
Trên cơ sở thực tiễn cả về mặt thành công và hạn chế của tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL, các đại biểu rút ra những bài học về mặt lý luận, đề xuất, kiến nghị với Đảng, Nhà nước và lãnh đạo các địa phương nhiều giải pháp cơ bản để tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL phát triển theo hướng nhanh, bền vững trong thời gian tới.
GS, TS Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp miền Nam kiến nghị: Thời gian tới, ĐBSCL cần phải đầu tư mạnh hơn cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp và công nghệ. Thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa; ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường, là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Nhiều đại biểu khác đề xuất: Tích tụ ruộng đất một cách hợp lý, không đặt nặng vấn đề hạn điền sẽ là tiền đề cho CNH nông thôn ĐBSCL. Đề nghị Trung ương sớm ban hành Quy chế liên kết vùng ĐBSCL để khơi thông các nguồn lực, tăng cường liên kết hợp tác toàn diện giữa các tỉnh, thành phố; hỗ trợ về kinh phí đầu tư kết cấu hạ tầng, nhân lực, công nghệ và cơ chế, chính sách ưu đãi để hình thành mạng lưới khu, trạm nông nghiệp công nghệ cao, có đủ năng lực nghiên cứu, thử nghiệm, trình diễn, sản xuất, cung ứng các sản phẩm và dịch vụ khoa học và công nghệ cao, tạo bước đột phá, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của các địa phương trong vùng. Chính phủ nên tiếp tục có những chính sách ưu tiên đầu tư cho hạ tầng nông thôn, hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy xuất khẩu, trợ giá một số mặt hàng... Đặc biệt, phải hoàn thiện chính sách khuyến khích nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản giữa nông dân với doanh nghiệp, phát huy hiệu quả vai trò của ngành công nghiệp phụ trợ đối với sản xuất nông nghiệp, nhằm giúp giảm giá thành, tăng giá trị, nâng cao sức cạnh tranh của các mặt hàng nông sản vùng ĐBSCL trên thị trường trong và ngoài nước.
Bài và ảnh: HỒNG HIẾU