“Kể từ ngày cô giáo Nguyên lên Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang dạy chữ cho đồng bào và các em học sinh, đến nay đã sang năm thứ 10. Bây giờ nhiều người đã làm cán bộ, trẻ em đều biết đọc, biết viết. Có cái chữ, người dân làm ăn thuận lợi hơn, cuộc sống đang thay da đổi thịt từng ngày”. Đó là lời ông Thào Mý Sính, Chủ tịch UBND xã Thượng Phùng, huyện Mèo Vạc.
Từ thị trấn Mèo Vạc tới xã Thượng Phùng hơn 20km, qua những khúc cua gấp và các vách núi cao ngút ngàn. Phải mất hơn hai giờ đồng hồ chúng tôi mới đến được trung tâm xã. Người dân nơi đây sống rải rác thành các bản nhỏ trên núi cao, thi thoảng có lác đác những ngôi nhà tranh nằm nép mình trong những khe núi. Có nhà ở chênh vênh tít trên đỉnh núi, như một sự thách thức với thiên nhiên vùng cực bắc này. Nhưng, họ đã, đang và vẫn sống như thế từ đời này sang đời khác! Cuộc sống của người dân dựa vào nguồn lương thực chính là cây ngô, nhưng đất đai ít lại khô cằn, hiệu quả kinh tế thấp. Dẫn đến đời sống của đồng bào nơi biên cương còn nghèo, thiếu thốn, khó khăn, vất vả. Giao thông đi lại không thuận lợi, hàng hóa khan hiếm, trình độ nhận thức của đồng bào còn chậm. Việc học cái chữ xưa kia quả là xa vời với người dân nơi đây.
Ngôi trường xã Thượng Phùng hiện ra trước mắt chúng tôi sau những dãy núi đá nhấp nhô. Các cháu học sinh hồn nhiên với những bộ quần áo đặc trưng của các dân tộc. Các cháu nhìn chúng tôi vẻ ngây ngô và lạ lẫm.
Cô giáo Đàm Thị Nguyên quê ở Sơn Dương, Tuyên Quang, học sư phạm tiểu học huyện Mèo Vạc. Lúc ra trường cô có nguyện vọng mang cái chữ được học để dạy các em học sinh vùng cao. Cô bảo, khi biết ý định của mình, bố mẹ lo lắng: “Là thân phận con gái, một thân, một mình xa quê hương lên vùng cao gió ngàn heo hút, không biết con có chịu được gian khổ, vất vả không?”.
Nhưng với ý chí, nghị lực và tâm nguyện một lòng cống hiến sức trẻ của mình cho Tổ quốc, với tấm bằng sư phạm trong tay và sự yêu nghề, cô đã vượt qua bao đèo dốc để lên với vùng biên giới huyện Mèo Vạc, với niềm khát khao mang cái chữ học được truyền cho đồng bào các dân tộc và con em họ.
Cô Nguyên lên dạy chữ ban đầu gặp muôn vàn khó khăn, đồng lương ít ỏi, sinh hoạt thiếu thốn, chợ lại cách xa trường học; nước ăn về mùa khô khan hiếm phải đi lấy ở xa về. Điện thắp sáng chưa có, nhiều hôm đang soạn bài, đèn hết dầu, khiến tâm trạng càng hiu quạnh. Một mình giữa rừng núi heo hút chỉ có tiếng chim kêu và tiếng côn trùng rả rích. Ngôn ngữ bất đồng, nên việc truyền đạt kiến thức là khó khăn. Học trò nhỏ đến trường cô còn phải rửa mặt, chải đầu. Còn học viên học xóa mù chữ đều là người lớn tuổi, có người bằng tuổi bố mình. Có người đi học mang điếu cày đến lớp, khi đang học thì xin cô cho hút thuốc lào; có người thì ngủ, có người lại nói chuyện gây mất trật tự. Hết buổi học cô giáo hỏi lại mà chẳng ai nhớ gì. Có người nói: “Việc gì cũng có thể làm được, mà việc học cái chữ khó quá, học mãi không vào cái bụng được!”.
Cô Nguyên còn nhớ, có lần xuống bản vận động học sinh đến trường, tối mới về. Trên đường đi thì trời mưa to, đường trơn, tay phải chống gậy, chân bước lõm bõm vào những vũng nước. Hôm sau cô ốm, không lên lớp được, thế là học sinh bỏ học hết. Vậy là bao nhiêu công lao lại đổ xuống sông, xuống biển. Cô Nguyên vừa lo, vừa sợ, nước mắt nghẹn ngào. Những lúc như thế tưởng chừng không vượt qua được, nhưng với tấm lòng yêu nghề, mong muốn đem ánh sáng văn hóa tới đồng bào vùng biên, cô lại vững vàng vượt qua tất cả.
Ngày lại ngày, bàn chân bé nhỏ của cô lại xuống các bản làng tìm gặp già làng, trưởng bản thuyết phục và đến từng nhà người dân tuyên truyền vận động, giải thích để bà con hiểu việc học cái chữ rất cần thiết cho cuộc sống, như trồng cây ngô cho bắp to hơn, lợn nuôi sẽ nhanh lớn hơn; việc lấy vợ, lấy chồng không phải điểm chỉ bằng tay nữa, mà biết viết đơn, biết ký; có việc gì cần giải quyết thì nhờ chính quyền. Có học mới hiểu biết xã hội, đất nước, con người và làm ăn mới thoát được đói nghèo...
Vào những ngày thứ bảy, chủ nhật, cô lại lên nương làm rẫy cùng bà con, để cùng học, cùng làm, cứ như mưa dầm thấm lâu. Cô đã học được tiếng của đồng bào và tình người luôn thắp sáng bằng những việc làm. Khi bà con ốm đau, cô cho thuốc, lúc bà con không có cái ăn, cô giúp lúa gạo, từ đó tình cảm ngày càng gần gũi như người trong một nhà. Bà con tin và hiểu ra sự cần thiết của cái chữ, nên đã cho con đến lớp. Học sinh biết cô giáo vất vả nên thương lắm, chúng đã đến lớp đều và không bỏ học như trước.
Dẫu cho cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, nhưng bằng tình yêu nghề, cô “Nguyện một đời gieo chữ ở bản cao, trên vùng cao nguyên đá”. Những trang giáo án còn thơm mùi mực, ngày mai cô tiếp tục gieo chữ cho thế hệ trẻ, để thắp sáng cuộc sống vùng cực Bắc biên cương Tổ quốc.
Mây lãng đãng bay trên những sườn núi, tiếng trống trường vang vang, vọng núi rừng. Các em học sinh từ các bản làng trên những dãy núi cao cầm ô, cắp sách tới trường trong niềm vui hân hoan. Hẳn như thế sẽ không còn cảnh đói chữ trên cao nguyên đá này.
TRẦN CAO ĐẠI