QĐND - LTS: Tiến sĩ Lương Hoài Nam, nguyên Tổng giám đốc các hãng hàng không: Jetstar Pacific Airlines, Air Mekong…; người từng có nhiều bài viết về giáo dục gây sự chú ý của dư luận đã gửi đến tòa soạn Báo Quân đội nhân dân bài viết về đổi mới mô hình giáo dục.
Những “nhà đầu tư vĩ đại” vẫn chờ đợi
Nhu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam đã liên tục được Đảng, Nhà nước, giới chuyên môn và người dân quan tâm trong hàng chục năm nay.
Với truyền thống hiếu học và mức độ quan tâm của các gia đình cho việc học hành của con cái, chuyện học ở Việt Nam quan trọng không kém chuyện ăn, mặc, ở. Thậm chí, ở nhiều gia đình nghèo, bố mẹ, ông bà còn tiết kiệm các khoản ăn uống, để dành tiền cho con cháu học hành. Khó lượng hóa hết được giá trị đầu tư của các gia đình Việt Nam cho việc học hành.
 |
|
Tăng đào tạo kỹ năng thực hành đã giúp sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên có tỷ lệ tìm được việc làm cao hơn. Ảnh: Nguyên Minh.
|
Nền giáo dục nước ta lâu nay chưa đáp ứng được sự mong đợi, đòi hỏi của các gia đình. Họ đã và đang “đầu tư” nhiều công sức, tiền của mà "kết quả" thu về chưa tương xứng. Họ là những “nhà đầu tư vĩ đại”, sẵn sàng hy sinh tất cả để đầu tư cho tương lai.
Trong tình hình đó, một số gia đình có điều kiện đã và đang gửi con cái ra nước ngoài du học. Hiện tại, số học sinh, sinh viên Việt Nam du học ở nước ngoài khoảng 60.000 người/năm. Mỗi năm, chi phí của các gia đình Việt Nam cho con cái học ở nước ngoài khoảng trên dưới 2 tỷ USD.
Lựa chọn mô hình - “vấn đề của mọi vấn đề”
Các nội dung đổi mới giáo dục Việt Nam rất nhiều, nhưng vấn đề mà tác giả bài này cho là gốc rễ, quan trọng nhất là: Mô hình giáo dục nào được chọn cho lần đổi mới giáo dục rất được trông đợi và kỳ vọng này? Đây là “vấn đề của mọi vấn đề”.
Tác giả bài này rất băn khoăn với ý kiến của một số người trong cuộc nói rằng, các cơ quan chức năng đã nghiên cứu hàng chục mô hình giáo dục trên thế giới và không chọn mô hình giáo dục của một nước nào hết, rằng nước ta sẽ xây dựng một mô hình giáo dục riêng của Việt Nam, kế thừa những gì tốt của các mô hình tiên tiến và phù hợp với các điều kiện thực tiễn của nước ta.
Câu hỏi là liệu chúng ta có đủ trình độ, hiểu biết để sáng tạo một mô hình giáo dục đủ tốt cho Việt Nam hay không? E là không hoặc rất khó. Chúng ta có nhiều chuyên gia giáo dục nhưng e rằng, nước ta vẫn chưa có các "tổng công trình sư giáo dục", những người có đủ kiến thức, kinh nghiệm thiết kế một mô hình giáo dục đồng bộ, chất lượng như các mô hình tiên tiến trên thế giới.
Nếu như mọi thứ hay ho, tiên tiến của thế giới đều có thể dễ dàng "vận dụng một cách sáng tạo" thì nước ta đã tự làm được tất cả mọi thứ và trở nên giàu mạnh từ lâu rồi (kể cả việc tự sản xuất máy bay, tàu ngầm hay tàu vũ trụ). Nhưng vấn đề không đơn giản như thế. Chúng ta có thể liệt kê hàng loạt thất bại của các chương trình "vận dụng một cách sáng tạo" trong các lĩnh vực. Giáo dục không phải là lĩnh vực ngoại lệ.
Trong thời kỳ phong kiến, giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn của nền giáo dục Trung Hoa. Trong thời kỳ Pháp thuộc và đến tận ngày thống nhất đất nước, hệ thống giáo dục ở miền Bắc nước ta thừa kế đáng kể hệ thống giáo dục Pháp. Sau khi đất nước thống nhất, giáo dục Việt Nam được chuyển dịch về mô hình giáo dục Liên Xô.
Sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan rã, giáo dục Việt Nam bắt đầu chịu sự tác động của các nền giáo dục khác. Nền giáo dục của Việt Nam hiện nay ở các bậc học là tập hợp chắp vá của nhiều hệ thống, tư tưởng giáo dục khác nhau: Trung Hoa, Pháp, Liên Xô, Anh, Mỹ…
Nếu các nhà giáo dục nước ta để ý, không khó để họ nhận ra rằng, khi tự chi tiền cho con cái đi du học nước ngoài, hầu hết các gia đình Việt Nam chọn các nước theo mô hình giáo dục: Anh, Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Ca-na-đa... Số học sinh, sinh viên đi du học tại các nước khác như: Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Hà Lan, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... không nhiều trong tổng số du học sinh Việt Nam. Điều đó cho thấy, các gia đình Việt Nam nhìn chung tin tưởng và đánh giá cao mô hình giáo dục Anh. Nếu có điều kiện, họ sẵn sàng đầu tư cho con cái học mô hình giáo dục Anh ở một nước phát triển.
Về đại cương, hệ giáo dục Anh bao gồm 6 năm tiểu học và 5 năm trung học (chương trình trung học "nén" là 4 năm). Sau khi kết thúc trung học, tùy thuộc kết quả một kỳ thi chung, học sinh được chọn theo học hệ cao đẳng học nghề (polytechnic) 3 năm, hoặc dự đại học 2 năm để thi vào các trường đại học (university, college) với thời gian học đại học 3 năm.
So với chương trình trung học phổ thông ở nước ta hiện nay, học sinh tiết kiệm 1 năm (hoặc 2 năm nếu theo chương trình "nén"). Số môn học ở các lớp trung học cũng ít hơn và học sinh được chọn các môn học (ngoài 3-4 môn học bắt buộc). Số môn học các năm cuối cấp trung học chỉ khoảng 7-8 môn (thay vì 12-13 môn theo chương trình hiện nay của Việt Nam), cho phép các em học sâu hơn các môn này.
Chương trình dự bị đại học 2 năm (chương trình "nén" 1,5 năm) cũng cho phép học sinh chọn học 7-8 môn học phù hợp với định hướng ngành học đại học, tuy nhiên, học sinh cũng có quyền chọn học nhiều môn hơn.
Nếu hỏi ý kiến các gia đình Việt Nam xem họ có muốn con cái được học theo mô hình giáo dục Anh hay không, tác giả bài này tin rằng phần đông các gia đình sẽ ủng hộ. Vấn đề chỉ là ngành giáo dục Việt Nam có khẳng định được năng lực thực hiện với một lộ trình hợp lý hay không (về nhân lực, chương trình, cơ sở vật chất...)? Giáo dục Anh là một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất trên thế giới và nước nào áp dụng được nó đều đạt được những thành tựu phát triển tốt. Nó đáng để Việt Nam nghiên cứu kỹ và cố gắng áp dụng.
Tóm lại, rất cần thực hiện một cách đồng bộ, đợt đổi mới giáo dục lần này sẽ thoát khỏi tình trạng chắp vá, thực sự mang tính "căn bản và toàn diện".
TS LƯƠNG HOÀI NAM