QĐND - Nhiệm kỳ tài khóa 2011-2015 đã đi được 2/3 chặng đường với không ít thành công nhưng cũng còn bộn bề khó khăn và có những mệnh đề chưa thực sự có lời giải. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Vũ Nhữ Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) về chủ đề này.

Dấu ấn từ chính sách

- Nhiệm kỳ tài khóa 2011-2015 đã đi được 3 năm với những dấu ấn quan trọng bằng nhiều chính sách điều hành vĩ mô đem lại hiệu quả thiết thực, theo ông đâu là những thành tựu nổi bật?

Tiến sĩ Vũ Nhữ Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính).

- Tôi cho rằng, đầu tiên phải khẳng định chính sách tài khóa (CSTK) của chúng ta trong 3 năm qua đã làm được rất nhiều việc ý nghĩa. Chính phủ và Quốc hội đã kịp thời có những điều chỉnh trong CSTK nhằm tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt là tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định, phát triển sản xuất. Một số chính sách tiêu biểu như Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24-2-2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; Quyết định 21/2011/QĐ-TTg ngày 6-4-2011 về gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tháo gỡ khó khăn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế năm 2011; Quyết định 54/2011/QĐ-TTg ngày 11-10-2011 về việc gia hạn nộp thuế TNDN năm 2011 của doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong một số ngành nhằm tháo gỡ khó khăn, góp phần thúc đẩy SXKD; Nghị quyết 08/2011/QH13 ngày 6-8-2011 của Quốc hội về bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân. Nghị quyết 13/NQ-CP ngày 10-5-2012 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường; Nghị quyết 29/2012/QH13 ngày 21-6-2012 về một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân. Năm 2013, Chính phủ lại ban hành Nghị quyết 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu...

- Nhờ những điều chỉnh đó, chính sách thu và chi NSNN giai đoạn 2011 - 2013 đã linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế hơn. Ông nhận định ra sao về vấn đề này?

- Tôi nghĩ, điểm nhấn ở đây là hệ thống chính sách pháp luật về thu NSNN tiếp tục được hoàn thiện theo hướng giảm tỷ lệ động viên, tăng cường công khai minh bạch, giảm thủ tục hành chính thuế. Trong 3 năm, hàng loạt điều chỉnh miễn, giảm, gia hạn, hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thu nhập cá nhân (TNCN) đối với nhiều đối tượng đã được thực hiện, đem lại hiệu quả cần thiết, kịp thời. Cụ thể, đối với thuế TNDN đã giảm mức thuế suất phổ thông từ mức 25% xuống 22% từ ngày 1-1-2014 và theo mức 20% từ ngày 1-1-2016, áp dụng mức thuế suất 20% từ ngày 1-7-2013 đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Đối với thuế TNCN đã nâng mức khởi điểm chịu thuế cho bản thân từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng, nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc từ mức 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng. Đồng thời thực hiện miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, miễn thu thủy lợi phí…

Về chi ngân sách, đã điều hành chặt chẽ, giảm tỷ trọng chi NSNN trong GDP từ mức khoảng 33% GDP giai đoạn 2009-2010 về mức 27-28% GDP giai đoạn 2011-2013; tập trung tăng chi bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, thực hiện cải cách tiền lương. Trong đó, chi an sinh xã hội (không kể chi cải cách tiền lương) năm 2013 tăng 60% so với năm 2010; bố trí nguồn để cải cách tiền lương nâng từ mức tối thiểu 650.000 đồng/tháng năm 2010 lên 1.150.000 đồng/tháng năm 2013. Bội chi ngân sách năm 2011 là 4,9% GDP, năm 2012 là 4,8% GDP, năm 2013 do điều kiện thu ngân sách khó khăn nên đã phải điều chỉnh từ 4,8% GDP lên 5,3% GDP. Ngoài ra, dư nợ công, dư nợ Chính phủ và dư nợ quốc gia được bảo đảm trong giới hạn an toàn. Ngoài huy động cho bội chi NSNN, chúng ta đã phát hành trái phiếu Chính phủ trong 3 năm 2011 - 2013 hơn 150.000 tỷ đồng cho đầu tư phát triển (đạt 66,7% nhiệm vụ phát hành giai đoạn 2011-2015).

Có thể nói 3 năm qua, nền kinh tế đã đang dần được phục hồi, tăng trưởng đạt mức khá. Năm 2011 tăng trưởng GDP đạt 6,24%, năm 2012 đạt 5,25%; năm 2013 tăng 5,42%. Tỷ lệ lạm phát đã giảm từ 18,13% năm 2011 xuống 6,81% năm 2012 và 6,04% năm 2013...

Những mệnh đề cần lời giải

- Chúng ta nỗ lực trong điều chỉnh chính sách tài khóa, nhưng theo báo cáo của Chính phủ,  hiện vẫn  còn những "nút thắt" chưa được giải quyết? Ông có thể chia sẻ cụ thể về những khó khăn này?

 

- Công nhân Tổng công ty 36 thi công đường Đông Trường Sơn. Ảnh: Nguyên Minh

- Phải thẳng thắn nói rằng, 3 năm qua, tình hình kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế nhưng chưa thật vững chắc, chúng ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Cân đối thu chi ngân sách khó khăn, lạm phát tuy được kiềm chế nhưng vẫn còn nguy cơ tăng trở lại do chưa thực hiện cải cách tiền lương, chưa thực hiện được một số loại giá (than, điện, y tế, giáo dục…) theo giá thị trường. Bên cạnh đó, tốc độ tăng CPI vẫn cao hơn tốc độ tăng GDP, biên độ dao động lạm phát giữa các năm rất lớn chứng tỏ tính ổn định chưa cao. Nếu nhìn vào cơ cấu thu chi của ngân sách, chúng ta sẽ nhận ra, tỷ trọng chi thường xuyên có xu hướng tăng trong giai đoạn 2011 - 2013 (từ 59,3% năm 2011, 67,4% năm 2012 và 68,9% năm 2013), trong đó áp lực tăng chi để thực hiện các chính sách an sinh xã hội đang có xu hướng mở rộng. Ngoài ra, các chương trình mục tiêu hiện đang có xu hướng trở thành một nội dung chi hằng năm (chi NSNN cho các chương trình mục tiêu quốc gia khá lớn, chiếm khoảng 3,52% tổng chi NSNN) trong khi kết quả hoạt động chưa rõ ràng. Tỷ trọng chi đầu tư có dấu hiệu giảm từ 26,4% năm 2011 xuống 20,4% năm 2013 đã phần nào tác động làm thay đổi cơ cấu đầu tư toàn xã hội và so với GDP.

Đặc biệt, trong bối cảnh tăng trưởng của Việt Nam vẫn dựa vào vốn là chủ yếu thì việc giảm chi đầu tư từ NSNN sẽ tác động tới tăng trưởng cũng như việc thực hiện chuyển đổi tái cơ cấu kinh tế. Thêm nữa là việc triển khai cải cách khu vực sự nghiệp công, xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở các bộ, ngành, địa phương cũng như ở từng lĩnh vực thực sự chậm so với yêu cầu đề ra. Quá trình điều chỉnh khung giá dịch vụ sự nghiệp công trong từng lĩnh vực theo hướng từng bước tính đúng, tính đủ chi phí dịch vụ quá chậm, gây khó khăn cho việc chuyển đổi cơ chế quản lý tài chính. Công tác xã hội hóa cũng còn nhiều bất cập, hạn chế, mới chỉ tập trung vào các hoạt động cung ứng dịch vụ xã hội có nhu cầu cao.

- Dưới góc độ một nhà nghiên cứu chính sách, ông có đề xuất những điều chỉnh nào để nhiệm kỳ tài khóa hoàn thành chặng cuối thuận lợi và hiệu quả hơn?

- Theo tôi, tính ổn định, bền vững trong cân đối NSNN đang phải đối mặt với một số khó khăn trong dài hạn. Bội chi NSNN có xu hướng tăng từ 4,4% GDP năm 2011 lên khoảng 5,3% GDP năm 2013. Cùng với đó là mức dư nợ công có xu hướng tăng từ 54,9% GDP năm 2011 lên 56,2% năm 2013. Không gian CSTK ngày càng thu hẹp, tỷ lệ động viên vào NSNN so với GDP có xu hướng giảm trong khi nhu cầu chi NSNN, đặc biệt chi cho con người, cho an sinh xã hội ngày càng tăng khiến cho khả năng giữ mục tiêu bội chi NSNN đến 2015 dưới 4,5% GDP là rất khó khăn.

Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục rà soát lại hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế theo hướng tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho SXKD, hỗ trợ cho thị trường để phục hồi tăng trưởng. Đồng thời tổ chức thực hiện tốt các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN… Các cơ quan phải tăng cường quản lý thu NSNN thông qua kiểm soát chặt chẽ nguồn thu, tăng cường thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế; Đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra thuế vào các lĩnh vực, mặt hàng có khả năng gian lận thuế gây thất thu cao; Kết hợp chặt chẽ với cơ quan thanh toán nhằm kiểm tra đúng, kịp thời, đầy đủ số thu ngân sách, chống thất thu, gian lận thuế. Cải cách thủ tục hành chính thuế phải làm quyết liệt hơn nữa nhằm giảm thời gian, chi phí cho người nộp thuế, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp…

Về chi NSNN, cần quản lý theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, cơ cấu lại các khoản chi trên cơ sở thực hiện rà soát lại các nội dung chi để xác định đúng thứ tự ưu tiên chi NSNN... Cũng phải lưu ý hạn chế hình thành các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách mà nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu từ NSNN để tránh phân tán nguồn lực… Đặc biệt, cần kết hợp tốt giữa CSTK và chính sách tiền tệ trong việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

- Xin cảm ơn ông!

 HOÀNG TRƯỜNG GIANG (thực hiện)