leftcenterrightdel
Thứ trưởng Thường trực Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn. Ảnh: NGHINH XUÂN 

Phóng viên (PV): Thưa ông, việc ký ERPA với WB vừa qua có ý nghĩa như thế nào?

Thứ trưởng Hà Công Tuấn: Việt Nam là nước thành viên của Công ước khung Liên hợp quốc (LHQ) về biến đổi khí hậu (BĐKH). Tại hội nghị Hội đồng các nước thành viên năm 2015 ở Paris (Pháp), Việt Nam đã cùng thống nhất sáng kiến chương trình chi trả và lượng giá về giảm phát thải khí CO2 (Các-bon, khí nhà kính). Cũng tại hội nghị này, Việt Nam cam kết vào năm 2030 giảm phát thải 8% CO2 so với năm 2015; nếu có sự hợp tác hiệu quả của các quốc gia, Việt Nam có thể giảm phát thải CO2 tới 25%. Trong sáng kiến này, LHQ thành lập Quỹ Đối tác Các-bon trong lâm nghiệp (gọi tắt là Quỹ FCPF). Chúng ta đã hợp tác rất chặt chẽ với FCPF cùng nhiều tổ chức của Na Uy. Việt Nam đã có 10 năm thực hiện chương trình và chuẩn bị sẵn sàng thực thi cơ chế tín chỉ CO2. Năm 2018, FCPF đã công nhận Việt Nam cơ bản hoàn thành giai đoạn chuẩn bị sẵn sàng thực thi REDD+ (giảm phát thải khí nhà kính). Về mặt quốc gia, Việt Nam có chương trình quốc gia thực thi REDD+. Việt Nam cũng đã luật hóa chương trình này trong Luật Lâm nghiệp. Nghị định 156 của Chính phủ cũng quy định, giảm phát thải khí nhà kính như một loại dịch vụ môi trường rừng.

Năm 2018, Bộ NN&PTNT cùng Quỹ FCPF ký ý định thư về việc Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên thực hiện chuyển sang giai đoạn mới chi trả dựa trên kết quả giảm phát thải CO2. Quỹ FCPF đã ủy thác cho WB điều phối, đàm phán với chúng ta để ký ERPA. Việc ký ERPA này có nhiều ý nghĩa, thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta thực hiện giảm mất rừng, suy thoái rừng, giảm phát thải khí nhà kính. Quyết tâm này của Việt Nam đã được bạn bè quốc tế công nhận. Việc ký thỏa thuận này là nguồn tài chính mới cho nỗ lực bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam. Nếu chúng ta thực hiện cam kết, từ nay đến năm 2025, rừng của 6 tỉnh ở khu vực Bắc Trung Bộ sẽ giúp giảm phát thải 10,3 triệu tấn khí CO2, Quỹ FCPF sẽ chi trả cho Việt Nam khoảng 51,5 triệu USD. Đây là nguồn lực rất có ý nghĩa cho các tỉnh Bắc Trung Bộ và cũng là cơ chế thí điểm của LHQ về chi trả giảm phát thải khí nhà kính, làm cơ sở xây dựng thị trường tín chỉ CO2 trên toàn cầu. Việt Nam là một trong 5 quốc gia trên thế giới và là quốc gia đầu tiên ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương ký thỏa thuận với Quỹ FCPF. Việc này tạo nên uy tín rất lớn trong cộng đồng quốc tế.

leftcenterrightdel
Rừng sản xuất của một hộ nông dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Ảnh: DIỆP ANH 

PV: Định hướng về cơ chế chi trả giảm phát thải khí nhà kính sau khi ký ERPA với WB sẽ như thế nào, thưa ông?

Thứ trưởng Hà Công Tuấn: Sau khi ký ERPA với WB, Bộ NN&PTNT sẽ ban hành kế hoạch chi tiết để thực hiện thỏa thuận này; trong đó sẽ trình Chính phủ ban hành quy định về cơ chế tiếp nhận tiền, chi trả tiền thu được từ dịch vụ tín chỉ CO2, triển khai việc đo lường hấp thụ CO2 trên thực địa, tăng chất lượng rừng. Làm được điều này chúng ta tăng được bể chứa CO2, nghĩa là Việt Nam có lượng hấp thụ CO2 cao hơn và bảo đảm cam kết hấp thụ CO2 đã ký với mức cam kết chi trả từ Quỹ FCPF là 5 USD/tấn CO2. Cơ chế chi trả tiền này phải bảo đảm nguyên tắc minh bạch. Tiền thu từ CO2 khác với thu từ dịch vụ nguồn nước; và chúng tôi đang tính làm sao để chi trả một cách hợp lý nhất, dành phần cơ bản cho những người làm tăng bể chứa CO2.

PV: Thưa ông, rừng ở khu vực 6 tỉnh Bắc Trung Bộ bán được tín chỉ CO2 cho FCPF, vậy thị trường bán được tín chỉ CO2 trong thời gian tới sẽ như thế nào?

Thứ trưởng Hà Công Tuấn: Chúng tôi rất mong muốn cơ chế tín chỉ CO2 này được triển khai diện rộng. Tuy nhiên, nếu riêng nước ta thì không thể tự làm được mà cần có sự tham gia của các quốc gia trên thế giới. Chúng tôi hiểu việc hợp tác với FCPF giống như làm thí điểm, vì chúng ta là những người đi đầu để sau đó nhân rộng ra toàn cầu. Việc bán tín chỉ CO2 chủ yếu cho những người làm ra phát thải ở nước ngoài là chính. Ngoài ra, chúng tôi cũng đang trình Chính phủ một cơ chế song song với cơ chế ERPA về thí điểm thực hiện bán tín CO2 ở trong nước. Tuy vậy, phải cần thêm thời gian mới có thể thực hiện cơ chế này.

PV: Trong tương lai, rừng ở khu vực Đông Nam Bộ, Đông Bắc Bộ của chúng ta liệu có thể bán được tín chỉ CO2 không, thưa ông?

Thứ trưởng Hà Công Tuấn: Tất cả chỗ nào có rừng đều có hấp thụ CO2, như vậy đều có tiềm năng tham gia thị trường CO2. Chỉ có điều đã gọi là thị trường thì phải có người mua, người bán. Chúng ta đang mong muốn cơ chế tín chỉ bắt buộc thì người có phát thải CO2 bắt buộc phải chi trả cho người tạo ra hấp thụ CO2. Khi có thị trường bắt buộc về tín chỉ CO2, lúc đó tất cả các khu rừng đều có thể tham gia dịch vụ này. Hiện nay, trên thế giới, việc bán tín chỉ CO2 đang ở giai đoạn thị trường tự nguyện. Về bản chất, chúng ta ký ERPA với WB điều phối nguồn tiền từ Quỹ FCPF vừa mang tính chất của cơ chế thị trường, vừa mang tính chất hợp tác, tài trợ. Tức là vẫn ở giai đoạn thí điểm ở quy mô toàn cầu.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

NGUYỄN KIỂM (thực hiện)