Cơ cấu lại các ngành kinh tế biển
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang mở rộng phạm vi ra các nước với tốc độ nhanh, tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực về biển, tạo ra những điều kiện, cơ hội mới cho khai thác biển đối với nhiều quốc gia. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại các ngành kinh tế biển nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, khai thác tối đa cơ hội phát triển kinh tế biển của quốc gia trong bối cảnh mới; đồng thời tiếp tục củng cố vị thế, mở rộng tầm ảnh hưởng của mình thông qua biển và đại dương.
Cơ cấu lại các ngành kinh tế biển đi đôi với đổi mới mô hình phát triển, nâng cao hiệu quả các ngành lĩnh vực kinh tế biển nòng cốt, ngành có vai trò quan trọng củng cố tăng cường quốc phòng, an ninh biển. Phát triển ngành kinh tế biển có trọng tâm không dàn trải, gắn kết chặt chẽ với xây dựng các trung tâm kinh tế biển mạnh.
 |
Ảnh minh họa. Nguồn: tapchigiaothong.vn |
Thúc đẩy phát triển nhanh một số ngành lĩnh vực kinh tế biển, như: Dịch vụ cảng biển quốc tế, vận tải biển viễn dương, hiện đại hóa và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa công nghiệp đóng sửa tàu biển, phát triển du lịch đảo và du lịch trên biển, nuôi trồng hải sản vùng xa bờ, khai thác hải sản viễn dương vùng biển quốc tế, khai thác sản xuất năng lượng tái tạo mới ven biển và trên biển.
Tiếp tục cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành kinh tế biển, tập trung củng cố và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh hội nhập đối với các tập đoàn, doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối ở những ngành kinh tế biển nòng cốt, thiết yếu, doanh nghiệp nhà nước hoạt động ở những địa bàn biển đảo quan trọng về quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Tập trung xây dựng phát triển một số trung tâm kinh tế biển mạnh có sức cạnh tranh hội nhập cao trong khu vực. Trong đó xây dựng Hải Phòng-Quảng Ninh là trung tâm kinh tế biển ở khu vực phía Bắc; Đà Nẵng-Quảng Nam là trung tâm kinh tế biển ở khu vực Trung Bộ; Khánh Hòa là trung tâm kinh tế biển ở khu vực Nam Trung Bộ; Bà Rịa-Vũng Tàu thành một trung tâm kinh tế biển mạnh trong khu vực.
Hoàn thiện thể chế quản lý tổng hợp tài nguyên biển
Kinh nghiệm của các quốc gia có biển trên thế giới cho thấy, để phát triển bền vững kinh tế biển, các quốc gia đều tập trung xây dựng chính sách biển tổng thể ở tầm quốc gia, trong đó chú trọng đầu tư nguồn lực để phát triển các ngành kinh tế biển mũi nhọn, tăng cường nghiên cứu khoa học về biển, tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý biển. Các quốc gia cũng không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển. Tổ chức, bộ máy quản lý biển được hoàn thiện để tạo sức mạnh quản lý tổng hợp, thống nhất, điều phối, liên kết, phân bổ nguồn lực bảo đảm hiệu quả, hiệu lực quản lý.
Tại Việt Nam, chúng ta cũng đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về biển nhưng vẫn còn chưa đầy đủ và chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cần khẩn trương xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý biển, đảo. Thực hiện phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo với phương châm không làm thay quản lý ngành, lĩnh vực mà đóng vai trò định hướng, điều phối các hoạt động quản lý ngành, lĩnh vực; giúp khắc phục các xung đột, mâu thuẫn trong quản lý theo ngành, lĩnh vực; sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái biển, hải đảo; thống nhất các hoạt động quản lý tài nguyên, môi trường biển và hải đảo từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo phát triển bền vững biển và hải đảo.
Theo TS Tạ Đình Thi, Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo theo phương thức tổng hợp đang được áp dụng rất phổ biến tại nhiều nước trên thế giới. Thực tiễn kinh nghiệm của hầu hết các quốc gia có biển trên thế giới cho thấy phương thức quản lý này là phù hợp và bảo đảm hiệu quả nhất.
Cần tiếp tục nghiên cứu, kiện toàn bộ máy quản lý, đặc biệt là hệ thống cơ quan làm công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Nghiên cứu, xây dựng mô hình cơ quan quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo cho tương xứng, phù hợp, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi chức năng, nhiệm vụ bảo đảm vận hành thông suốt thể chế quản lý tổng hợp. Với yêu cầu của công tác quản lý tổng hợp, rất cần phải có một cơ quan có vị trí pháp lý đủ tầm, đủ mạnh, được giao các chức năng, nhiệm vụ tương xứng, có sự tập trung trách nhiệm cao hơn từ khâu hoạch định, khâu điều phối đến khâu tổ chức thực thi chiến lược, chính sách biển và hải đảo để thực hiện vai trò giúp Chính phủ hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách, cơ chế, công cụ điều phối liên ngành, liên vùng.
Tăng cường nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về biển
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, để phát triển bền vững kinh tế biển, cần huy động các nguồn lực, tranh thủ nguồn vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế để tăng cường công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học biển và hải đảo nhằm nâng cao hiểu biết về tiềm năng, lợi thế và tác động bất lợi từ biển, làm chủ các hoạt động trên biển, xác lập luận cứ khoa học, tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển bền vững kinh tế biển và đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, xây dựng thể chế, chính sách quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường biển, triển khai hiệu quả công tác quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ.
Nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp khoa học và công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại trong điều tra cơ bản, quản lý, giám sát, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; phòng tránh thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên biển, đảo; dự báo, quan trắc, phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường biển; phát triển các ngành kinh tế biển quan trọng như công nghiệp đóng tàu, cảng biển, nuôi trồng, đánh bắt, chế biến hải sản, dịch vụ biển.
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ nguồn thải từ đất liền ra biển, chủ động ứng phó hiệu quả với các sự cố môi trường, đặc biệt là sự cố tràn dầu, hóa chất độc xảy ra trên biển.
Nghiên cứu, tính toán tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thực hiện các biện pháp ứng phó tại các vùng ven biển. Xây dựng và triển khai đề án tăng cường năng lực chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó sự cố môi trường, đặc biệt là sự cố tràn dầu, hóa chất, phóng xạ, hạt nhân và thiên tai bão lũ, động đất, nước biển dâng giai đoạn đến năm 2030.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong quan trắc, thông báo sớm về động đất, cảnh báo sóng thần, bão, thiên tai trên biển; phòng ngừa và ứng phó sự cố trên biển, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển xuyên biên giới. Tích cực tham gia các thể chế hợp tác về tài nguyên, môi trường biển, đóng góp vào nỗ lực chung trong quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Gắn chặt việc phát triển kinh tế biển với củng cố quốc phòng, an ninh
Lợi ích quốc gia trên biển ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu chúng ta không phát triển được kinh tế biển thì nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh là rất hiện hữu; đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn trong việc giữ vững chủ quyền và các quyền lợi quốc gia trên biển, đảo. Ngược lại, nếu không giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải thì chúng ta cũng không thể phát triển kinh tế biển bền vững. Vì vậy, phát triển kinh tế biển phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Các cấp, các ngành địa phương ven biển tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, tài nguyên biển, đảo đến cán bộ, công chức, người dân hoạt động trên biển và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc làm cơ sở cho việc bảo vệ chủ quyền và an ninh trật tự vùng biển; người dân hoạt động trên biển cần được phổ biến các quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật của các nước trong khu vực liên quan đến vùng biển mỗi nước, vùng chồng lấn của nước ta với các nước để nâng cao nhận thức, kiến thức về việc xây dựng và phát triển kinh tế biển phải gắn chặt với bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển; trang bị kiến thức cần thiết để người dân, nhất là ngư dân hoạt động trên biển có khả năng ứng phó với các tình huống phức tạp xảy ra để chủ động bảo vệ an toàn cho mình, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh trật tự trên biển.
Tổ chức huấn luyện, diễn tập và triển khai các phương án bảo vệ và giải quyết những tình huống phức tạp về an ninh trật tự trên địa bàn khu vực ven biển, như: Diễn tập đánh địch đổ bộ đường biển kết hợp đổ bộ đường không; diễn tập cụm làng xã chiến đấu; diễn tập cơ động tàu xuồng, chi viện lực lượng, phương tiện bảo vệ đảo; tổ chức diễn tập các phương án phòng, chống gây rối, gây bạo loạn, khủng bố, phòng thủ tuyến biển, chống xâm nhập, giữ vững an ninh, chủ quyền lãnh hải, phục vụ tốt công tác phát triển kinh tế biển; nâng cao trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu đối với các lực lượng vũ trang trên biển.
Trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế ở nước ta, công tác tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần được mở rộng và đẩy mạnh cả ở phạm vi ngoài nước, nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam về chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Kiên quyết đấu tranh không nhân nhượng trước những hành vi xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền đối với vùng biển, đảo Tổ quốc của các thế lực bành trướng nước ngoài.
ĐỖ PHÚ THỌ - HỒ QUANG PHƯƠNG