Năm Ất Mùi-2015 vừa khép lại, Xuân Bính Thân-2016 đã về với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc: Kỷ niệm 70 năm Ngày bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên; Đại hội lần thứ XII của Đảng khai mở chặng đường mới; kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến... Từ Bính Tuất 1946 đến Bính Thân 2016 - hai mốc lịch sử cách nhau 70 năm, chứng kiến sự thăng hoa của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong cuộc trường chinh giữ nước và dựng xây đất nước, viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.

70 mùa xuân đã qua kể từ Tết Độc lập đầu tiên năm 1946, nhưng không ít người vẫn chưa cắt nghĩa được: Vì sao dân tộc Việt Nam vừa được hưởng độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ, chúng ta đã lại phải tiếp tục cầm súng chiến đấu, qua 9 năm kháng chiến chống Pháp và tiếp đó là 21 năm chống Mỹ, cứu nước? Dù có nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng có một thực tế lịch sử  không thể bàn cãi: Dân tộc Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình, nhưng buộc phải cầm súng chiến đấu khi không còn sự lựa chọn nào khác và đã chiến đấu với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Nhân dân Việt Nam khát khao hòa bình, nhưng đó phải là nền hòa bình thực sự trong độc lập, tự do.

  Ảnh minh họa.

Trong tâm khảm nhiều người dân Việt Nam, nhất là lớp người từng đi qua hai cuộc kháng chiến đều khắc sâu bài thơ chúc Tết Độc lập đầu tiên của Bác Hồ 70 năm trước: Bao giờ kháng chiến thành công/ Chúng ta cùng uống một chung rượu đào/ Tết này ta tạm xa nhau/ Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy.(1)

Tết Bính Tuất 1946-Tết Độc lập đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa diễn ra trong bối cảnh kẻ thù cũ chưa kịp rút đi đã thêm kẻ thù mới. Tại Nam Bộ, tiếng súng kháng chiến chống thực dân Pháp ngày một lan rộng. Trong khi ở miền Bắc, quân Tưởng lợi dụng những khó khăn chồng chất mà chúng ta đang phải đương đầu hòng “bóp chết” chế độ dân chủ cộng hòa non trẻ. Một số lực lượng phản động trong nước cũng tìm cách ngóc đầu dậy. Trong “ngôi nhà độc lập” mà nhân dân Việt Nam vừa giành được từ tay Nhật-Pháp, ngoài những con tim cháy bỏng tinh thần dân tộc và lòng yêu nước “độc lập trên hết, Tổ quốc trên hết”, gia tài quốc gia gần như trống rỗng; “giặc đói”, “giặc dốt” hoành hành; thù trong, giặc ngoài rình rập… Đất nước ở trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Mùa xuân Độc lập đầu tiên đến với dân tộc Việt Nam sau hơn 80 năm dài nô lệ là mùa xuân không trọn vẹn. Sứ mệnh lịch sử một lần nữa lại thử thách toàn dân tộc: Bằng mọi giá phải giữ vững thành quả cách mạng, bảo vệ bằng được chế độ mới! Ngay những ngày đầu Xuân mới (ngày Mồng Hai Tết), Chính phủ liên hiệp kháng chiến-một chính phủ thể hiện tinh thần đại đoàn kết  toàn dân tộc, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã được thành lập. Quốc hội-cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thông qua cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ngày 6-1-1946, đã “trao quyền bính” cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Chính phủ đã xử lý sáng suốt các tình huống, thống nhất các lực lượng của quốc dân, tổng động viên nhân tài, vật lực, từng bước đưa đất nước vượt qua được những thử thách cam go nhất.

Chỉ sau 5 tháng kể từ khi ra đời, dưới sự “chèo lái” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã có cơ quan quyền lực tối cao của mình, có một chính phủ thống nhất, một Hiến pháp tiến bộ, dân chủ, một hệ thống chính quyền từ Trung ương đến các địa phương có đầy đủ danh nghĩa về pháp lý cả về đối nội và đối ngoại, điều hành đất nước bằng “thần linh pháp quyền”.

Có lẽ ít mùa xuân nào tình thế căng thẳng với nhiều thử thách, nhưng cũng rất sôi động, hào hùng như Xuân Bính Tuất 1946. Mùa xuân độc lập đầu tiên, cũng là mùa xuân cả nước ra trận, mùa xuân của những đoàn quân Nam tiến-xuân của hào khí Đông A, của mối tình sâu nặng Bắc-Nam, hậu phương-tiền tuyến. Không chỉ có các chiến sĩ Việt Nam Giải phóng quân mà hàng chục vạn thanh niên, phụ nữ, thiếu niên thuộc đủ mọi tầng lớp, cả kiều bào vừa về nước cũng tình nguyện tham gia đoàn quân Nam tiến, sát cánh cùng đồng bào Nam Bộ chiến đấu chống quân xâm lược. Vào thời khắc Giao thừa trang nghiêm năm ấy, nhiều gia đình ở miền Bắc cùng đứng lặng trước bàn thờ Tổ quốc, lòng hướng về miền Nam bởi: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam"; "nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”.

Xuân Bính Tuất 1946 còn ghi dấu ấn về sự trưởng thành ngoạn mục của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ cả trong đối nội và đối ngoại. Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương tạm thời hòa hoãn với Pháp để đẩy nhanh quân Trung Hoa dân quốc ra khỏi đất nước. Với bản Hiệp định sơ bộ được ký với Pháp trong những ngày đầu Xuân 1946, cho thấy chúng ta đã có sự điều chỉnh về chủ trương, từ “Hoa-Việt thân thiện” để tập trung đấu tranh vào kẻ thù trực tiếp là quân Pháp đang tái chiếm miền Nam, chuyển sang “tạm thời hòa hoãn với Pháp” để đẩy quân Trung Hoa dân quốc ra mau, nhằm phân hóa kẻ thù, tranh thủ thời gian để xây dựng thực lực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp. Phải là một chính phủ bản lĩnh và trí tuệ được dẫn dắt bởi một vị Chủ tịch có tầm nhìn chiến lược, hội tụ đầy đủ cả tín tâm và quyết tâm như Chủ tịch Hồ Chí Minh mới có được nước cờ sắc sảo như vậy.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam thêm một lần chứng kiến mùa xuân sôi động và đầy thử thách - Xuân Bính Tuất 1946. Nguyện vọng tha thiết “cả nước sum vầy” trong bài thơ chúc Tết của Bác Hồ mùa xuân năm ấy, phải trải qua cuộc trường chinh 30 năm kháng chiến mới thành hiện thực.

 Đại tá, PGS, TS TRẦN NGỌC LONG (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam).