Sau thời gian dài đàm phán, Hội nghị Phông-ten-nơ-blô rơi vào bế tắc. Giữa tháng 9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đoàn đại biểu Chính phủ ta lên đường về nước bằng tàu thủy.
Trước khi rời nước Pháp trở về Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh có gặp một số trí thức Việt kiều yêu nước, tiến bộ, với mong muốn mời họ trở về giúp đất nước trong cơn sóng gió. Và có ba người đã tình nguyện theo Bác trở về nước trong dịp này, là kỹ sư Phạm Quang Lễ (sau này là Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa), bác sĩ Trần Hữu Tước (sau này là Giáo sư, Anh hùng Lao động) và kỹ sư Võ Quý Huân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm xưởng công binh tại căn cứ địa Việt Bắc (tháng 2-1951). Ảnh tư liệu
Người hỏi kỹ sư Phạm Quang Lễ: - Chú về nước có gì băn khoăn không?
- Thưa Bác, không có gì băn khoăn cả, vì cháu chưa có gia đình riêng, hơn nữa, cháu có nguyện vọng về nước để góp phần vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Người nói:
- Thế thì tốt. Chú về nước chế tạo vũ khí, cách mạng rất cần chú. Nhưng ở trong nước sống rất gian khổ, liệu chú có chịu nổi không?
Kỹ sư Phạm Quang Lễ:
- Thưa Bác, cháu mong đợi ngày này đã lâu, gian khổ mấy cháu cũng chịu đựng được!
Người rất hài lòng về Phạm Quang Lễ và đặt tên cho kỹ sư trẻ này là Trần Đại Nghĩa.
Người hỏi bác sĩ Trần Hữu Tước:
- Chú về nước, gia đình có gì khó khăn không?
Bác sĩ Trần Hữu Tước:
- Thưa Bác, công việc gia đình cháu đã thu xếp xong, khi nào có điều kiện thì cháu đưa vợ con về nước.
Người gật đầu, nắm tay bác sĩ Trần Hữu Tước, nói:
- Thế thì tốt, cố gắng làm sao cho ổn việc nhà, để lo việc nước.
Người hỏi kỹ sư Võ Quý Huân:
- Chú về nước, công việc gia đình thế nào?
Kỹ sư Võ Quý Huân:
- Thưa Bác, mọi việc cháu đã thu xếp ổn thỏa. Khi nào có điều kiện, cháu sẽ đưa vợ con về Việt Nam.
Người nói:
- Vậy thì tốt. Về nước, chú cố gắng đưa ngành đúc-luyện kim Việt Nam phát triển, phục vụ kháng chiến và kiến quốc.
- Thưa Bác, cháu sẽ cố gắng!
Khi trở về nước, Trần Đại Nghĩa và Trần Hữu Tước đều 33 tuổi, còn Võ Quý Huân 31 tuổi.
Trần Đại Nghĩa quê Vĩnh Long, nhận học bổng đi học ở Pháp năm 1935; tốt nghiệp đại học ở Pháp, trở thành kỹ sư của một hãng chế tạo máy bay với mức lương khá cao, nhưng đã từ bỏ để trở về Việt Nam tham gia kháng chiến, kiến quốc theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại Việt Nam, Trần Đại Nghĩa ngày đêm nghiên cứu, chế tạo vũ khí đánh giặc, trở thành Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân giới. Ông đã chế tạo thành công súng ba-dô-ka, một loại súng bắn xe tăng địch đầu tiên của Việt Nam. Ông được phong quân hàm Thiếu tướng, trở thành Anh hùng Lao động.
Trần Hữu Tước quê ở xã Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội). Tốt nghiệp phổ thông, ông được nhận học bổng sang học tại Pháp và thi đỗ vào Đại học Y khoa Paris, bảo vệ luận án bác sĩ xuất sắc năm 1940, được giữ lại trường. Về Việt Nam, ông được mời giảng dạy và xây dựng ngành tai-mũi-họng tại Trường Đại học Y dược, ông có nhiều đóng góp trong ngành y và là 1 trong 9 bác sĩ đầu tiên được Nhà nước ta phong hàm giáo sư năm 1955.
Võ Quý Huân sinh ra trong một gia đình giáo học tại Thanh Chương, Nghệ An. Năm 1937, ông sang Pháp vừa học vừa làm. Năm 1940, tốt nghiệp ba bằng kỹ sư các ngành: Cơ điện, đúc, công nghệ; đã hành nghề tại nhiều công ty, nhà máy bên Pháp. Về nước, ông được giao làm Giám đốc Sở Khoáng chất kỹ nghệ Trung Bộ và đã có công xây dựng Nhà máy Xe lửa Tràng Thi, Nhà máy Điện Bến Thủy và các nhà máy kinh tế trong thời gian đầu toàn quốc kháng chiến. Năm 1948, ông đã cho ra đời mẻ gang đầu tiên từ quặng sắt tại mỏ Nghệ An. Những lô lựu đạn sản xuất bằng gang dưới sự chỉ đạo của Võ Quý Huân kịp thời được đưa ra chiến trường, góp phần đánh thắng quân xâm lược.
Cách dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành khoa học và nghệ thuật. Những người như Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước, Võ Quý Huân..., được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục và rèn luyện đã trở thành những nhà trí thức tiêu biểu của cách mạng Việt Nam.
PGS, TS ĐỨC VƯỢNG, Nguyên Phó viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng