Tất cả đều ngăn nắp như đã được rèn luyện thành thói quen. Chẳng ai nghĩ chúng đều là những đứa trẻ bất hạnh bị bỏ rơi, được chùa Diệu Pháp (xã Phước Tân, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) đón về nuôi dưỡng.

Như là tiền định…

Một buổi tối cách đây 35 năm, khi tiếng chuông chùa vừa điểm, ni sư trụ trì Huệ Đức (tên tục là Hồ Thị Duyên Nhi) chuẩn bị tụng kinh, niệm Phật, bỗng nghe tiếng khóc của trẻ sơ sinh. Chạy ra cổng chùa, sư cô nhìn thấy một đùm khăn giãy giụa, tiếng khóc yếu ớt, lịm dần. Linh tính mách bảo, một đứa trẻ bị bỏ rơi, lập tức nhà sư bế sinh linh bé nhỏ ấy vào chùa chăm sóc. Sau khi tiêm thuốc và sơ cứu, đứa bé vẫn không chịu tỉnh, cả chùa đêm đó thức trắng. Đến trưa hôm sau, đứa trẻ dần hồi phục trong niềm vui của các ni sư. Một thoáng ý nghĩ xuất hiện, ni sư Huệ Đức quyết định đặt tên cho đứa trẻ là Hồ Đức Diệu Hiền. Vị sư trụ trì chùa Diệu Pháp tâm sự: “Đặt tên Diệu Hiền cho cháu bé bất hạnh ấy, tôi mong những điều kỳ diệu, yên bình sẽ đến với cháu trong sự chở che của đức Phật từ bi”.

Ni sư Huệ Đức (đứng thứ ba, từ trái sang) tiếp nhận quyên góp của các phật tử ủng hộ nuôi trẻ em bất hạnh.

Những ngày đầu tập “làm mẹ” thật vất vả, khó khăn nhưng bằng tình thương vô lượng, ngày ngày, nhà sư nấu cháo, lấy nước hồ cho đứa bé ăn. Diệu Hiền lớn lên trong sự đùm bọc của ni sư Huệ Đức cùng những bà mẹ nuôi đều là sư sãi. Cũng từ đây, những đứa trẻ bất hạnh, tật nguyền được “gửi” trước cửa tự ngày một nhiều hơn, tới nay cả thảy hơn 360 cháu. Ni sư Huệ Đức nhớ lại: “Từ cái duyên tình cờ với bé Diệu Hiền, chỉ sau khoảng một năm đã có gần 40 cháu bị bỏ rơi được nhà chùa cưu mang, chăm sóc. Ngày đó, chùa mới xây dựng, tiền công đức ít ỏi, trong khi số trẻ bị bỏ lại trước cổng chùa tăng lên nên cứ rảnh rang là tôi lại cùng các phật tử miệt mài cày cuốc hơn 2ha đất quanh chùa để trồng rau, khoai, sắn, mang xuống chợ bán lấy tiền mua sữa cho các cháu. Nhiều cháu bị não úng thủy, xương thủy tinh, nhiễm HIV từ bố mẹ, nhà chùa phải nuôi nấng vô cùng vất vả nên hầu như chẳng đêm nào tôi ngủ yên giấc”.

Chăm nuôi đã vậy, khi các cháu lớn dần, ni sư Huệ Đức lại trăn trở, tính đến tương lai cho các cháu. “Nhân bất học bất tri lý”, phải dạy chữ cho các cháu nên người! Với suy nghĩ đó, nhà sư trụ trì mở các lớp học chữ và tự mình dạy cho lũ trẻ. Khi thấy cháu nào có kiến thức tốt và khả năng tư duy nhanh thì nhà chùa gửi vào các trường học trên địa bàn. Ni sư Huệ Đức cười hiền hậu: “Mọi sự đều do chữ duyên mà thành. Cha mẹ đặt tên tôi là Duyên Nhi nên tôi phải gần gũi, chăm sóc những đứa trẻ là chuyện đương nhiên. Duyên sinh, duyên khởi mà”.

Mỗi cái tên một cảnh đời bất hạnh

Dẫn chúng tôi đi thăm những căn phòng từ thiện trong chùa, ni sư Huệ Đức giới thiệu: “Nhà chùa căn cứ vào độ tuổi và bệnh tật để sắp xếp chỗ ở cho các cháu phù hợp. Các cháu nam, nữ trên 10 tuổi, người già, người khuyết tật, trẻ sơ sinh… được bố trí ở riêng”.

Theo sự chỉ dẫn của nhà sư, chúng tôi tới khu dành cho những đứa trẻ dưới 5 tuổi. Ngoại trừ một số trẻ khoẻ mạnh nô đùa, chạy nhảy, mấy cháu nhỏ bệnh tật, ốm đau nằm trên giường, lay lắt. “Đốm, Cao su, Lượm 1, Lượm 2… về chỗ đi nào”-tiếng người phụ nữ tuổi chừng 40 đang làm công quả chăm sóc lũ trẻ nhẹ nhàng nhắc nhở.

Thấy tôi có vẻ tò mò về những cái tên nghe rất lạ, ni sư Huệ Đức giải thích: “Ở đây trẻ nhỏ rất nhiều, mỗi đứa một hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều chung họ và đệm “Hồ Đức Diệu…” (những chữ trong họ, tên tục của sư trụ trì và tên ngôi chùa chở che các cháu-PV) nên để ghi nhớ và không nhầm lẫn, chúng tôi đặt tên các cháu theo đặc điểm riêng”. Chỉ vào mấy đứa trẻ đang tíu tít nô đùa, sư cô nói tiếp: “Đứa áo vàng là Hồ Đức Diệu Thương, tên thường gọi là Cao su, bởi nhà chùa nhặt được cháu trong vườn cao su khi chỉ còn mong manh hơi thở. Đứa ngồi trong xe đẩy là Hồ Đức Diệu Tâm, tên thường gọi là Đốm. Ba năm trước trong lúc một ni cô đang dọn dẹp sân chùa thì thấy con chó đốm tha về bọc vải, nó thả ngay dưới chân tượng Phật rồi sủa vang. Bởi vậy, thằng bé còn có tên là Đốm. Còn cháu nằm trên giường kia là Hồ Đức Diệu Hoa, tên thường gọi là Mùi. Hơn hai năm trước, mới mồng 2 Tết nó đã bị để lại ngay trước cổng chùa. Nghĩ cũng tội, con bé cỡ gần tháng tuổi, mắc bệnh não úng thủy bẩm sinh, nhà chùa đã nuôi nấng, chăm sóc tận tình mà cứ quắt queo, chỉ cái đầu là to và ngày càng nhũn. Mô phật, chẳng biết nó còn hưởng dương được bao lâu nữa!”…

Cúi xuống bế bé Mùi, vẻ mặt nhà sư lộ nét đau thương, hai hàng nước mắt từ từ lăn trên gò má. Nhìn cảnh tượng ấy tôi bỗng thấy chạnh lòng, se thắt. Càng thương cảm những số phận hẩm hiu, tôi càng thấu hiểu nỗi vất vả và tấm lòng từ bi, nhân ái của nhà sư trụ trì và các ni cô chùa Diệu Pháp. 

Ni sư Huệ Đức (đứng thứ hai, từ phải sang) cùng các phật tử và những trẻ em bất hạnh được nhà chùa nuôi dưỡng.

Không chỉ cưu mang những cô nhi, trẻ em bệnh tật mà cả người già neo đơn không nơi nương tựa cũng được nhà chùa rộng lòng phụng dưỡng. Ở dãy nhà phía trong, ngay trước cửa phòng người già, tàn tật, một phụ nữ ốm nhom, tiều tụy đang ngồi xúc cơm ăn mà thân hình cứ lắc lư, chao đảo. Những hạt cơm rơi vãi theo nhịp giật liên hồi của cánh tay. Ni sư Huệ Đức lắc đầu ái ngại: “A di đà Phật! Mười mấy năm trước, khi mới gửi vào chùa, bà Đào Thị Yến (tên người phụ nữ) còn trẻ đẹp lắm! Nghe nói bà ấy làm thư ký cho ông chồng là luật sư nhưng bị phụ tình, bội bạc dẫn tới suy sụp tinh thần, nảy sinh bệnh tật. Nhà chồng hắt hủi rồi gửi vào đây. Mấy năm nay bệnh của bà ấy thêm nặng, co giật suốt ngày nên chúng tôi gọi là bà Múa”.

Trong căn phòng nhỏ, hẹp, hơn chục người già đang ngồi lặng lẽ. Những khuôn mặt vô cảm như không hề biết đến những gì xung quanh. Dường như nỗi đau đã làm tâm hồn họ chai cứng. Họ tồn tại mà như không tồn tại, đúng như câu nói của nhà Phật “sắc sắc, không không”.

Niềm vui gieo “trái ngọt”

Tham quan góc trưng bày trong phòng khách nhà chùa, tôi chăm chú nhìn những bức hình lưu niệm của các em từng được nuôi dưỡng tại đây. Trong số đó có nhiều em đã trưởng thành, đỗ đạt. Ni sư trụ trì vui mừng giới thiệu: “Trong hơn 30 năm qua, nhà chùa đã nhận nuôi khoảng 370 cháu nhỏ. Hiện tại có hơn 100 cháu đang học tập ở các trường từ tiểu học trở lên; đã có 8 cháu đạt học vị tiến sĩ, 14 cháu có bằng thạc sĩ, gần 100 cháu là cử nhân, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên... Sự trưởng thành của lũ trẻ là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đối với nhà chùa”. “Làm thế nào nhà chùa nuôi nổi nhiều người như thế?”-Tôi băn khoăn hỏi sư trụ trì. Nhà sư chỉ tay ra mảnh vườn khá rộng, ở đó có những luống rau xanh tốt với đủ chủng loại đang được mấy em nhỏ cùng những người làm công quả chăm sóc, nói: “Ngoài tấm lòng của những nhà hảo tâm, các đoàn từ thiện và tín đồ tự nguyện quyên góp, vào ngày nghỉ học cuối tuần, nhà chùa tổ chức cho các cháu phát cỏ tăng gia cải thiện bữa ăn hằng ngày. Đây cũng là một cách dạy cho các cháu biết quý trọng sức lao động, biết chăm sóc lẫn nhau và tự mình vươn lên trong cuộc sống”.

Mấy trăm đứa trẻ được nuôi dưỡng bằng triết lý nhà Phật nên chúng rất đoàn kết, hiền lành và biết thương yêu, chia sẻ. Những em đã trưởng thành, vào dịp lễ, tết, ngày hè đều dành thời gian về thăm mái ấm, tặng quà, cho tiền những đứa nhỏ đồng cảnh ngộ, gọi là góp chút công san sẻ khó khăn cùng mẹ Huệ Đức. Chị Hồ Đức Diệu Hiền, đứa bé đầu tiên sư cô Huệ Đức nhặt được trước cổng chùa năm 1983, đã tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai, có gia đình riêng khá giả, tâm sự: “Dù đã rời xa mái ấm tình thương, nhưng tôi vẫn cung kính khắc ghi công lao nuôi dạy của mẹ Huệ Đức và luôn tự nhủ phải có trách nhiệm đùm bọc thế hệ sau. Bởi tất cả chúng tôi đều là người một nhà, đều do mẹ Huệ Đức tái sinh”.

Bao tâm huyết, lòng nhiệt tình và nỗi cực nhọc của nhà sư trụ trì đã và đang dần thành “trái ngọt”. Dẫu còn muôn vàn khó khăn về vật chất, chi phí ăn uống, học hành, thuốc men cho các cháu, nhưng trụ trì chùa Diệu Pháp cùng các đệ tử Phật môn vẫn gắng sức vượt qua, dìu dắt, động viên những đứa trẻ bất hạnh vượt qua mặc cảm, phấn đấu vươn lên có ích cho xã hội. Những ân tình đó được chính quyền và người dân địa phương ghi nhận.

Rời ngôi chùa trong tiếng líu lo con trẻ, tôi thấy lòng chộn rộn niềm vui. Bên tai tôi văng vẳng câu nói của Phó chủ tịch UBND xã Phước Tân: “Ni sư Huệ Đức là tấm gương tiêu biểu vì cộng đồng. Những nghĩa cử cao đẹp của nhà sư trụ trì tỏa sáng giữa đời thường, xứng đáng được chúng ta học tập, tôn vinh”.

Bài và ảnh: HOÀNG THÀNH