Ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, cuộc chiến đấu của quân và dân ta với quân Pháp xâm lược được quân Anh dưới danh nghĩa đồng minh giúp đỡ tiếp tục diễn ra ngày càng quyết liệt. Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa tìm kiếm khả năng hòa bình để tránh chiến tranh, nhưng vẫn tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến khi cơ hội không còn.

Trước hết, Đảng đã tập trung xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân từ Trung ương đến địa phương. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta diễn ra vào ngày 6-1-1946 đã xác lập quyền làm chủ đất nước của toàn dân, biểu thị sự tín nhiệm tuyệt đối của nhân dân đối với Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chính trị, ngoại giao của ta, đồng thời, góp phần nâng cao uy tín quốc tế của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Thứ hai, nắm vững quy luật chiến tranh cách mạng, Đảng đặc biệt chú trọng công tác xây dựng LLVT làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Bởi vậy, trong buổi ra mắt Chính phủ Liên hiệp lâm thời, diễn văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính sách của Chính phủ, về quân sự: “Thống nhất các bộ đội vũ trang dưới quyền chỉ huy của Chính phủ”(1). Đây là sự thể hiện tính kiên quyết và nhất quán của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm thống nhất chỉ huy quân đội, không cho phép các đảng phái lập quân đội riêng. Ngày 2-3-1946, trong phiên họp đầu tiên, cùng với thông qua danh sách, cơ cấu Chính phủ liên hiệp, Quốc hội quyết định thành lập "Toàn quốc kháng chiến ủy viên hội",(2) với nhiệm vụ thống nhất các lực lượng của quốc gia về quân sự, chính trị, kinh tế, hành chính và động viên nhân lực, vật lực cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc.

Để lãnh đạo chặt chẽ quân đội, khi hiệp thương với các đảng phái khác, Đảng ta đưa ra đề nghị quy định cụ thể chức trách của Bộ Quốc phòng và Quân ủy hội. Bộ Quốc phòng phụ trách công tác quản lý hành chính trong quân đội, Quân ủy hội là cơ quan chỉ huy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được cử làm Chủ tịch.

Sau khi ổn định tổ chức cơ cấu các thành phần trong Chính phủ và Bộ Quốc phòng, từ tháng 3 đến tháng 5-1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành hàng loạt các sắc lệnh, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng quân đội chính quy của một quốc gia độc lập(3). Đồng thời, thống nhất phiên chế trong quân đội: Gồm tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, liên đoàn, tập đoàn của bộ binh, các đơn vị chuyên môn và hỏa lực trợ chiến. Thực hiện sắc lệnh trên, các chi đội Vệ quốc đoàn ở Bắc Bộ, Trung Bộ được chấn chỉnh tổ chức biên chế thống nhất theo từng đơn vị cấp trung đoàn và tiểu đoàn độc lập.

Với Nam Bộ, trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng lan rộng, tại Hội nghị mở rộng tháng 3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã phân tích tình hình và nhấn mạnh “phải thống nhất chỉ huy”, “giữ quyền chủ động tác chiến”, “phát triển vũ trang tuyên truyền”...

Quán triệt chỉ thị của Trung ương, quân dân Nam Bộ khẩn trương chấn chỉnh tổ chức, củng cố lực lượng, kịp thời nắm thời cơ nổi dậy phá tề, trừ gian, khôi phục chính quyền nhân dân, tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp và đẩy mạnh phong trào ở thành thị. Do chưa có điều kiện cải tổ thành trung đoàn nên Nam Bộ vẫn tổ chức chi đội. Trên địa bàn Khu 7 có 16 chi đội. Ở Khu 8, thành lập được 5 chi đội, trên cơ sở từng đơn vị vũ trang nhỏ lẻ, vừa chiến đấu phân tán từ nhiều chiến trường lân cận trở về. Khu 9 gồm có Chi đội 21 (Long Xuyên, Châu Đốc); Chi đội 22 (Cần Thơ); Chi đội 23 (Sóc Trăng); Chi đội 24 (Rạch Giá) và Chi đội 25 (Bạc Liêu). Cũng tại chiến trường này còn có Đại đội Cao Miên Việt kiều cứu quốc quân về đứng chân tại địa bàn Châu Đốc.

Bên cạnh LLVT tập trung của khu, tỉnh, mỗi thôn, ấp đều có một trung đội dân quân. Nhiều nơi tổ chức ban trinh sát, ban hành động, ban công tác, ban quân báo, công an xung phong... hoạt động trong các thành phố, thị xã. Riêng thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn, trên cơ sở các đội trinh sát vũ trang, cảm tử, trừ gian, Bộ tư lệnh Khu 7 còn xây dựng được 10 ban công tác và nhiều đội cảm tử, phân công khu vực hoạt động ở khắp các quận nội và ngoại thành.

Ngoài sự phát triển bộ đội chủ lực, trong quá trình nổi dậy, cùng với mở rộng vùng giải phóng, lực lượng cách mạng lớn mạnh vượt bậc cả ở nông thôn, đô thị và cả các đồn điền cao su. Đến cuối năm 1946, chính quyền cách mạng được thành lập tại 1.100 xã trong tổng số 1.200 xã toàn Nam Bộ(4). Các tổ chức cứu quốc của Mặt trận Việt Minh được khôi phục, củng cố. Lực lượng chính trị quần chúng hùng hậu được tôi luyện trong các hình thức đấu tranh: Hợp pháp, không hợp pháp, khởi nghĩa, chiến tranh du kích. Phong trào nhân dân vũ trang, luyện tập quân sự diễn ra khắp nông thôn với khí thế sôi nổi, mạnh mẽ. Lực lượng tự vệ, du kích có bước phát triển mới cả về số lượng, chất lượng và vũ khí trang bị. Riêng ở Sài Gòn, lực lượng tự vệ phát triển lên đến hơn 1.000 đội viên. Bên cạnh đó, hệ thống tổ chức đảng từ Xứ ủy đến các chi đội được thành lập. Điều đó có ý nghĩa quyết định để phát huy bản chất cách mạng, bảo đảm sự thống nhất lãnh đạo, chỉ huy và sự tồn tại, phát triển của các LLVT Nam Bộ.

Những tháng cuối năm 1946, thực dân Pháp càng bộc lộ dã tâm tạo lập ách thống trị ra toàn cõi Việt Nam. Chúng liên tiếp gây ra những vụ xung đột ở một số địa phương, hòng kiếm cớ đẩy nhanh tiến độ cuộc xâm chiếm nước ta. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng họp ngày 19-10-1946 nhận định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”(5), đồng thời khẳng định: “Phải tự tin rằng tuy kém về kỹ thuật, vũ khí nhưng với tinh thần dẻo dai bền bỉ, mình nhất định sẽ thắng”(6). Hội nghị quyết định: “Đẩy mạnh xây dựng LLVT, chú trọng chất lượng, sẵn sàng chiến đấu” (7).

Quán triệt nghị quyết Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng, để tạo thuận lợi cho chỉ đạo chiến tranh và phát huy khả năng độc lập tác chiến của từng địa phương, cả nước được chia thành 12 chiến khu. Đồng thời, Chính phủ quyết định giải thể Ủy ban Hành chính Bắc Bộ, Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam và thành lập Ủy ban Kháng chiến miền Nam Trung Bộ, Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Đồng chí Phạm Văn Đồng được cử làm đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ chỉ đạo kháng chiến ở Nam Trung Bộ.

Tiếp theo, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa họp từ ngày 28-10 đến ngày 9-11-1946, quyết định thống nhất Bộ Quốc phòng với Quân sự ủy viên hội thành Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy. Đến ngày 30-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 229/SL, quy định các cơ quan quân sự trên toàn quốc đặt dưới quyền của Bộ Quốc phòng. Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 230/SL, bổ nhiệm đồng chí Võ Nguyên Giáp giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy. Đồng chí Văn Tiến Dũng, nguyên Chính trị viên Chiến khu 3 được giao nhiệm vụ phụ trách Cục Chính trị.

Sang tháng 12-1946, tình hình càng trở nên căng thẳng, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu đã bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu trên các địa bàn chủ yếu. Tại Hà Nội, Trung ương Đảng quyết định thành lập Ủy ban Bảo vệ, Ban chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận do đồng chí Nguyễn Văn Trân làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ thành phố. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Phó bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ được Trung ương Đảng phân công trực tiếp chỉ đạo kháng chiến. Lực lượng được bố trí gồm có 5 tiểu đoàn bộ binh (101, 77, 212, 145, 523), 1 đại đội cảnh vệ, 4 trung đội pháo cao xạ, có nhiệm vụ phối hợp với 13 đội quyết tử, 36 tổ đội du kích. Cùng với 9 khẩu đội pháo binh với những khẩu sơn pháo, pháo chống tăng, pháo cao xạ bố trí ở Pháo đài Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo, Đào Xuyên, Thổ Khối, 8 trung đội công an xung phong, một đại đội tự vệ chiến đấu phối hợp với lực lượng dân quân và tự vệ, cả nội ngoại thành là 28.500 người(8), trang bị chủ yếu là lựu đạn, dao, kiếm, đã sẵn sàng cho ngày mở đầu Toàn quốc kháng chiến.

Cùng với Hà Nội, lực lượng chủ lực dựa trên cơ sở các trung đoàn ở miền Bắc, miền Trung và các chi đội ở miền Nam được bố trí phối hợp với dân quân, du kích, tự vệ sẵn sàng chiến đấu.

Vậy là, chỉ trong thời gian hơn một năm, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra các sắc lệnh, văn bản, thông tư, quyết định xây dựng một đội quân kiểu mới, từng bước chính quy hóa về tổ chức lực lượng, huấn luyện, vũ khí trang bị. Đồng thời, gấp rút kiện toàn, phát triển tổ chức quân sự với đầy đủ ba thứ quân trên bình diện toàn quốc gồm: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích, tự vệ rộng khắp. Bộ đội chủ lực trên toàn quốc có khoảng 85.000 người, được tổ chức thành 27 trung đoàn ở miền Bắc và 30 đơn vị vũ trang tập trung cấp chi đội và tiểu đoàn ở miền Nam, tăng 70% so với cuối năm 1945. Bên cạnh đó, lực lượng bán vũ trang cả nước tăng lên tới gần 1.000.000 người(9).

Những kết quả trong quá trình kiện toàn và phát triển LLVT trong năm 1946 đã góp phần nâng cao sức mạnh, phát huy vai trò chiến đấu của các đơn vị quân đội cũng như lực lượng dân quân, tự vệ, là bước chuẩn bị chủ động, tích cực để quân và dân ta bước vào cuộc kháng chiến trên quy mô toàn quốc, đã để lại bài học cho sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; xây dựng LLVT ba thứ quân trong giai đoạn hiện nay.

 TS TRƯƠNG MAI HƯƠNG

----------------------
(1) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2002, tr.247.

(2) - Toàn quốc Kháng chiến Ủy viên hội, sau gọi là Ủy ban Kháng chiến toàn quốc, rồi đổi thành Quân sự ủy viên hội, gọi tắt là Quân ủy hội.

(3) - Ngày 22-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33/SL, quy định cấp bậc, quân phục, phù hiệu, cấp hiệu cho lục quân toàn quốc. Ngày 25-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34/SL, quy định tổ chức Bộ Quốc phòng gồm có Văn phòng và 10 cục chuyên môn. Ngày 6-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 60/SL, đổi tên “Ủy ban Kháng chiến toàn quốc” thành “Quân sự ủy viên hội”. Đặc biệt, ngày 22-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 71/SL quy định: “Vệ quốc đoàn chính thức trở thành Quân đội của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
(4) - Báo cáo Tổ chức lực lượng năm 1946, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, hồ sơ số 43.

(5), (6) - Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.133.

(7) - Nghị quyết Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng (19-10-1946), tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.

(8) - Báo cáo về lực lượng bán vũ trang năm 1946, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, hồ sơ số 45.

(9) - Báo cáo tổ chức lực lượng năm 1946, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, hồ sơ số 54.