Kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946 / 19-12-2016), Báo QĐND Online xin giới thiệu loạt 4 bài “Hà Nội và sứ mệnh “chiến trường chính” trong Tổng giao chiến đầu tiên”, với mục đích cung cấp một số thông tin; luận giải một số nguyên nhân làm nên thắng lợi của Thủ đô trong 60 ngày đêm khói lửa… Bài đầu tiên trong loạt bài có tựa đề: "Chuẩn bị chu đáo để “châu chấu đấu voi”", trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc:
Ngày 19-12-1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân toàn quốc vùng lên đánh thực dân Pháp để giành và giữ độc lập, một nhà báo nước ngoài đã hỏi Bác Hồ: Các ngài dám đem châu chấu đá voi ư? Đó là một câu hỏi phản ánh khá chân thực về tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp lúc bấy giờ…
Quân số, vũ khí đều… chênh lệch
Cuối năm, dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến, căn nhà của Đại tá Nguyễn Trọng Hàm ở phố Hồng Hà (phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội) có nhiều khách đến thăm, và phần lớn là “cánh” phóng viên các báo, đài. Ông nguyên là Phó tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Đặc biệt hơn, trong những ngày toàn quốc kháng chiến, ông là trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 102, Trung đoàn Thủ Đô.
Năm nay đã bước vào tuổi 95, nhưng bước chân người cựu chiến binh vẫn phăm phăm lên xuống dốc, nơi dẫn ra vị trí Trung đoàn Thủ Đô thực hiện cuộc lui quân lịch sử qua gầm cầu Long Biên, sang bãi giữa năm nào. Khỏe mạnh, minh mẫn, chịu khó nghiên cứu, đặc biệt là người trực tiếp chiến đấu trong 60 ngày đêm tại Hà Nội, nên Đại tá Nguyễn Trọng Hàm thực sự là một “cuốn sách sống” về Thủ đô trong những ngày toàn quốc kháng chiến.
Khẩu pháo tại Di tích Pháo đài Láng. Đây là nơi đã bắn phát đạn đầu tiên, mở đầu Toàn quốc kháng chiến. Ảnh: Hoàng Hà.
Ông kể lại, cuối tháng 10 năm 1946, số quân Pháp ở Bắc Vĩ tuyến 16 đã lên đến 30.000 tên và riêng ở Hà Nội là 6.500 tên. Vũ khí của chúng có 5.000 súng trường, 600 tiểu liên, 150 trung liên và đại liên, 42 khẩu pháo các loại, 22 xe tăng, 40 thiết giáp, 30 máy bay và một số tàu chiến trực trên sông Hồng. Ngoài ra, nhiều gia đình trong số 7.000 Pháp kiều cũng được trang bị vũ khí và tổ chức thành hàng trăm ổ chiến đấu độc lập rải ra các khu phố. Quân Pháp bố trí xen kẽ với ta, trong đó chúng chiếm giữ một số vị trí hiểm yếu như : Phủ Toàn quyền, Trường Bưởi, Đồn Thủy, sân bay Gia Lâm... Sĩ quan, binh lính địch được huấn luyện chính quy, bài bản, được bảo đảm phương tiện thông tin hiện đại. Nhiều đơn vị của Pháp đã có kinh nghiệm chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Trong khi đó, lực lượng vũ trang của Hà Nội lúc ấy có 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn, 1 đại đội cảnh vệ, 4 trung đội pháo cao xạ ở các pháo đài Láng, Xuân Canh, Thổ Khối, Xuân Tảo, với tổng quân số hơn 2.500 người, được trang bị 1.516 súng trường, 3 trung liên, 1 đại liên, 1 bazôka 60mm, 1.000 lựu đạn, 80 bom ba càng, 200 chai xăng cơ-rếp, 7 khẩu pháo cao xạ, 1 khẩu sơn pháo 75mm, 1 khẩu pháo 25mm, 2 khẩu cối 60mm.
Như vậy, quân số của Pháp hơn gấp 2,6 lần quân ta, vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại và lớn hơn nhiều lần lực lượng của ta…
Toàn dân kháng chiến
Trước cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã từng phải đối đầu với nhiều kẻ thù hùng hậu và hung bạo. Thực tiễn đánh giặc cũng đã chứng minh, khi đã có sự đồng tâm, hợp lực của toàn dân, dù kẻ thù có mạnh đến mấy, chúng cũng đều bị nhân dân Việt Nam đánh bại.
Trước ngày Toàn quốc kháng chiến, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội đã đi trước một bước, chủ động bước vào cuộc tổng giao chiến đầu tiên với quân Pháp, bằng sự tham gia tích cực, tự nguyện của các tầng lớp nhân dân.
Đại tá, ThS. Mai Văn Quang, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam khẳng định, ngoài việc tuyên truyền vận động nhân dân tham gia kháng chiến, khi ấy Thành ủy Hà Nội rất chú trọng đến xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức các hội quần chúng cứu quốc để làm hạt nhân tổ chức, tập hợp lực lượng tham gia kháng chiến; mời một số nhân sĩ, trí thức, nhà tư sản dân tộc tham gia Ủy ban nhân dân Thành phố. Nhiều nhân viên kỹ thuật và công chức chế độ cũ có tinh thần yêu nước cũng tự nguyện tham gia chính quyền Thủ đô. Bên cạnh đó, với nhiều tổ chức quần chúng mới được thành lập như Tổng Liên đoàn Lao động, Đảng Xã hội Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất trên địa bàn Hà Nội được mở rộng và củng cố thêm một bước. Thế nên, khi kháng chiến bùng nổ, mọi tầng lớp nhân dân, già trẻ, gái, trai, không phân biệt giàu nghèo đều nhiệt tình tham gia kháng chiến. Người xung phong gia nhập lực lượng Vệ quốc đoàn, tham gia tự vệ; người phục vụ chiến đấu, hướng dẫn tản cư; các nhà sư cũng tự vũ trang tham gia kháng chiến; số chị em vốn làm nghề hát ả đào, buôn bán rau quả cũng tập trung được hơn 100 người thành lập đội tiếp tế - cứu thương.
Quân, dân Thủ đô phá đường, dựng chướng ngại vật trên đường phố Hà Nội để chặn đánh địch trong những ngày Toàn quốc kháng chiến. Ảnh tư liệu.
Trong những ngày chuẩn bị kháng chiến, ngoài lực lượng Vệ quốc đoàn Trung ương và Công an xung phong trực thuộc Sở Công an Bắc Bộ, Thành ủy và Ủy ban nhân dân Hà Nội đã trực tiếp xây dựng và lãnh đạo lực lượng vũ trang Thủ đô, bao gồm: Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu, Tự vệ xí nghiệp, Tự vệ Thành và dân quân tự vệ ngoại thành… Nhờ đó, các tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang Thủ đô đã phát triển nhanh chóng, giữ vai trò quan trọng trong chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu.
Đại tá Nguyễn Trọng Hàm cho biết, chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến, Bộ Chỉ huy Mặt trận Hà Nội chủ trương: Kiên quyết nắm quyền chủ động, tập trung lực lượng, bất ngờ tập kích các vị trí quân Pháp, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận địch, sau đó tổ chức khu tác chiến dài ngày trong thành phố; đặt chướng ngại vật ngăn chặn đánh địch chiếm các phố và tỏa ra các cửa ô; kết hợp trong ngoài cùng đánh.
Thực hiện chủ trương trên, Thành ủy, Ủy ban kháng chiến và Bộ Chỉ huy Mặt trận Hà Nội đã chia Hà Nội thành 3 liên khu. Liên khu 1 là khu vực trung tâm, lực lượng có Tiểu đoàn 101, 5 đội cảm tử đánh xe tăng, 1 tổ du kích đặc biệt, 1 đại đội tự vệ cứu quốc Hoàng Diệu, 7 đội tự vệ thành của 7 khu hành chính, 1 trung đội công an xung phong. Liên khu 2 là khu vực Nam Hà Nội, lực lượng có 2 tiểu đoàn (77, 212), 4 đội cảm tử đánh xe tăng, một số trung đội công an xung phong. Liên khu 3 là khu vực Tây – Nam thành phố, lực lượng có 2 tiểu đoàn (145, 523), 4 đội cảm tử đánh xe tăng, một số tổ du kích đặc biệt, 5 đội tự vệ thành của 5 khu hành chính.
Liên khu 1 đảm nhiệm chiến đấu ở vòng trong, vùng trung tâm, vừa tiêu hao, vừa thu hút địch tạo thế cho lực lượng của Liên khu 2, Liên khu 3 đánh địch bên ngoài. Liên khu 2, Liên khu 3 đánh địch ở vòng ngoài, ngăn chặn các cuộc tiến công của địch ra ngoại ô, cùng Liên khu 1 hình thành thế trận trong ngoài cùng đánh, hỗ trợ chi viện cho nhau để tiêu diệt, tiêu hao, ngăn chặn địch, giam chân chúng trong thành phố./.
PHẠM HOÀNG HÀ
(Còn nữa)
Bài 2: Hóa giải “bài toán khó” về bảo đảm hậu cần