Nội dung Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh?

Đêm 19 rạng ngày 20 tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
"Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm" (1)

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr 480-481


Chi đội Trần Phú thành lập khi nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi thành lập?
Ngày 26-12-1946, thành lập Chi đội Trần Phú gồm 426 cán bộ, chiến sĩ tuyển chọn trong các tổ chức Việt kiều yêu nước ở Lào và Thái Lan. Chi đội gồm 3 đại đội, một phân đội trinh sát, một phân đội vận tải và một tiểu đoàn bộ.
Chi đội trưởng: Nguyễn Chánh.
Chính trị viên: Trần Văn Sáu.
Sau lễ thành lập, chi đội hành quân về nước tam gia chiến đấu ở Nam Bộ với tên gọi "Chi đội Hải ngoại IV".



Trung đoàn Thủ Đô được thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy của trung đoàn khi mới thành lập?
Trung đoàn Thủ đô thành lập ngày 6-1-1947. Các đơn vị Vệ quốc quân, tự vệ, công an xung phong của Liên khu I Hà Nội (khu vực quận Hoàn Kiếm ngày nay) chính thức làm lễ thành lập trung đoàn, lúc đầu mang tên "Trung đoàn Liên khu I". Hội nghị quân sự toàn quốc (từ ngày 12 đến ngày 16-1-1947) tặng danh hiệu "Trung đoàn Thủ đô". Biên chế ba tiểu đoàn 101, 102, 103.
Trung đoàn trưởng: Hoàng Siêu Hải.
Chính trị viên: Lê Trung Toản.
Tham mưu trưởng: Hoàng Phương.
Ngày 13-1, trung đoàn làm lễ tuyên thệ tại rạp hát Tố Như (nay là Rạp Chuông Vàng), thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".


Trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô nhân dịp Tết Đinh Hợi (1947), Bác Hồ đã căn dặn những gì?
Ngày 17-1-1947, nhân dịp Tết Đinh Hợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ trung đoàn: "Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau" (1).

(1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 35.
Sự kỳ diệu của chiến tranh nhân dân

Các chiến sĩ Vệ quốc bảo vệ từng căn nhà, từng tấc đất của thủ đô Hà Nội.

Ngày 19/12/1946, trước dã tâm tái xâm lược nước ta của thực dân Pháp, "Nín nhịn đã nung nấu trong lòng dân tộc ta biết bao uất hận, nổ thành một sức mạnh xung thiên"(1). Đó là ngày mở đầu "cuộc tổng tiến công"(2), "cuộc tổng giao chiến đầu tiên"(3) của cuộc chiến tranh cách mạng đầu tiên do Đảng ta lãnh đạo.

Ngày đó đã đi vào tâm khảm mỗi người dân Việt Nam là ngày mở đầu kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp oanh liệt, đầy tự hào với bao điều không thể nào quên...

Phát động cuộc chiến đúng thời cơ

Lần đầu tiên lãnh đạo kháng chiến, nhưng từ sớm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấu dã tâm của kẻ thù. Ngay trong Hội nghị toàn quốc của Đảng tháng 8.1945 ở Tân Trào trước tổng khởi nghĩa, Đảng đã chỉ rõ "Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị của chúng ở Đông Dương"(4).

Để đối phó với kẻ thù mới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương vừa kiên quyết kháng chiến ở miền Nam, vừa ra sức xây dựng chế độ mới, Nhà nước mới về mọi mặt, thể hiện thiện chí hoà bình, kiên trì đối thoại nhằm thủ tiêu hoặc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đồng thời đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với tình huống xấu nhất: Chiến tranh lan rộng ra cả nước...

Bất chấp thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân dân ta, quân Pháp liên tục khiêu khích, lấn chiếm và tìm cách mở rộng chiến tranh, chỉ cần "một phần quân tăng viện từ mẫu quốc được chờ đợi đã đến nơi, nghĩa là khoảng 15.1.1947..."(5).

Điều đó hoàn toàn trùng hợp với một bản báo cáo của Morett - Giám đốc Sở An ninh Pháp tại Bắc Kỳ - phân tích tình hình ngày 15/12/1946, như sau: "Tôi không nghĩ rằng, Bộ chỉ huy các lực lượng Việt Nam có ý định mở cuộc xung đột, bởi họ đã có rất nhiều cơ hội, nhưng họ không lợi dụng những cơ hội đó. Theo ý mọi người, chúng ta mà chủ động gây chiến trước thì chỉ có thể là thắng lợi"(6).

Nhưng Pháp chưa đủ lực lượng cần thiết, họ phải chờ đợi, ít nhất vào giữa tháng 1 năm sau. Và khoảng thời gian đó (cuối tháng 12/1946 đến giữa tháng 1/1947) là thời cơ thuận lợi nhất để Đảng ta phát động kháng chiến toàn quốc. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ vào ngày 19/12/1946, có thể nói đó là thời điểm tối ưu trong một thời cơ thuận lợi.

Một số người trong chính giới Pháp(7) đổ lỗi cho phía Việt Nam đã gây ra chiến tranh, họ xem đây là "một sự nhầm lẫn chính trị to lớn, nó đã đưa Đông Dương vào một cuộc chiến tranh dài vô tận..."(8).

Những tác giả trên cố tình không nhớ đến việc giới hiếu chiến Pháp đã chuẩn bị trở lại xâm lược Đông Dương khi Chiến tranh thế giới thứ hai chưa kết thúc. Việc họ theo gót quân Anh vào miền Nam là bất hợp pháp, việc ra được miền Bắc là nhờ sự mua bán với Tưởng Giới Thạch và bao lần không thực hiện các điều cam kết, liên tục khiêu khích, lấn chiếm, tiếp tục đưa quân sang để mở rộng chiến tranh...

Sau này, nhiều tác giả nước ngoài đã chỉ rõ nguồn gốc của cuộc chiến tranh. King C.Chen - một người Mỹ gốc Hoa - khẳng định: Về quân sự, tuy Việt Minh tiến công trước, nhưng điều đó không che lấp nguyên nhân thật sự của chiến tranh: "Việc trở lại chế độ thực dân Pháp mới là nguyên nhân căn bản của cuộc chiến"(9). Ký giả Mỹ Z.P.Harrison: "Có thể nói, ngay từ đầu Việt Minh đã nhượng bộ người Pháp, không còn cách nào tránh nổi, họ đã phải tiến hành chiến tranh"(10).

Vậy là, lãnh đạo cuộc kháng chiến đầu tiên sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, chủ động và kiên quyết phát động cuộc chiến đúng thời cơ, khi khả năng hoà hoãn không còn và đất nước đã được chuẩn bị về mọi mặt.

Sự kỳ diệu của chiến tranh nhân dân

Căn cứ vào tương quan lực lượng, vào thực trạng địch-ta, tối 19 tháng 12 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy chính thức phát lệnh cho các đơn vị, địa phương, chiến trường nổ súng đồng loạt.

20 giờ 3 phút ngày 19/12, quân và dân ta ở Hà Nội nổ súng đánh địch. Ngay trong đêm đến rạng sáng hôm sau, các thành phố, thị xã: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hòn Gai, Vinh, Nam Định, Huế cũng nổ súng đánh địch. Với nhiều lý do, trước hết là bởi phương tiện thông tin lạc hậu và kinh nghiệm triển khai phối hợp, chỉ huy chiến đấu còn hạn chế, chỉ Hà Nội thực hiện mệnh lệnh đúng thời gian, những nơi khác chậm từ 2 đến 7 giờ.

Quân và dân ta trên chiến trường Nam Bộ đẩy mạnh các hoạt động kháng chiến phối hợp với miền Bắc, "Nhiệm vụ của Nam Bộ là không thể cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung, Bắc"(11).

Chủ trương đánh địch cùng lúc và đã tổ chức đánh địch gần như cùng một thời điểm, với tinh thần chủ động, đúng thời cơ, đã thể hiện rực rỡ nghệ thuật chỉ đạo mở đầu chiến tranh của Đảng ta.

Với một nhân dân đã làm chủ đất nước, với sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chỉ huy, cuộc tổng tiến công của quân và dân ta đã giam chân hàng vạn quân địch suốt hơn 3 tháng trời, tạo điều kiện cho cả nước tiếp tục chuyển vào thời chiến. Nhớ lại, cuối thế kỷ XIX, khi đánh Hà Nội, quân Pháp chỉ có vài đại đội bộ binh, do vài viên sĩ quan cấp uý chỉ huy mà đã chiếm thành, chiếm cả thành phố trong vài ngày, mới thấy rõ sự kỳ diệu của chiến tranh nhân dân có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng.

Chúng ta vui mừng bởi lịch sử hai nước Việt-Pháp đã sang một chương mới. Đó là sự hợp tác và hữu nghị vì lợi ích của cả hai nước trong một thế giới hiện đại. Ôn lại quá khứ cũng là để cho quá khứ nhắc nhở hiện tại và tương lai, để những gì thuộc lợi ích chân chính của nhân dân hai nước và cả loài người không ngừng phát triển.

Chú thích:
(1). Trường Chinh, Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, H, 1987, tr.22.
(2). Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb QĐND, H, 1976, tr.105.
(3). Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Nxb QĐND-Nxb Thanh niên, H, 1995, tr.30.
(4). Văn kiện Đảng 1930-1945, Nxb Sự thật, H, 1977, tr.413.
(5). Dẫn theo Phi-líp Đơ-vi-le: Paris-Sài Gòn-Hà Nội, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1993, tr.323.
(6). Dẫn theo Phi-líp Đơ-vi-le: Paris-Sài Gòn-Hà Nội, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1993, tr.402-403.
(7). Xem J.Xanh-tơ-ni: Câu chuyện về một nền hoà bình bị bỏ lỡ, Paris, 1967, lưu Thư viện Trung ương Quân đội (bản dịch), tr.21 và 254 và Xa-lăng: Một đế chế cáo chung (hồi ký), Paris, 1971, lưu Viện LSQS Việt Nam (bản dịch), tr.18 và 19.
(8). R.Xa-lăng, Sđd, tr.18-19.
(9). King C.Chen, Việt Nam và Trung Quốc (1938-1954), Sài Gòn cơ sở xuất bản Sử Địa, 1973, lưu Thư viện Viện LSQS, tr.180.
(10). Z.P.He-ri-xơn, Cuộc chiến tranh triền miên, Niu-oóc, 1982, lưu Trung tâm Thông tin Khoa học và Kỹ thuật quân sự (bản dịch).
(11). Văn kiện quân sự của Đảng, tập 2, Nxb QĐND, H, 1976, tr.69.

B.N - (theo Lao động)




Trận đánh nào được coi là trận đánh phục kích thắng lợi đầu tiên của Khu VIII, đánh dấu bước trưởng thành của bội đội khu, tỉnh góp phần thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh ở các địa phương phát triển trong kháng chiến chống Pháp?
Đó là trận Cổ Cò (ngày 22-1-1947 - mồng một Tết Đinh Hợi). Đây là trận phục kích của các Chi đội 17, 18, Đại đội Trường quân chính khu 8, một bộ phận Quốc vệ đội và du kích đánh tiểu đoàn cơ giới của Pháp từ chợ Mới về Sài Gòn. Trận địa bố trí từ cầu Bà Tồn đến cách Mĩ Thuận 1 km (trên quốc lộ 4), chủ yếu ở khu vực Cổ Cò (xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho). 10 giờ 30 phút trận đánh bắt đầu. Sau khi nổ mìn chặn đầu, bộ binh dùng tiểu liên, lựu đạn diệt địch. Sau hai giờ chiến đấu, ta diệt 170, bắt 15 quân Pháp, phá 14 xe quân sự (8 bọc thép), thu trên 100 súng.
Theo: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng(hỏi và đáp) - Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-2004