Bìa cuốn sách “Chúng ta đã thắng trong cuộc chiến tranh này như thế nào” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Bài của nhà báo Mỹ Đan-ny Schếch-tơ đăng trên tờ Bô-xtơn Phơ-ních ngày 6-5-1975, và tạp chí WIN ngày 24-7-1975, ngay sau ngày Việt Nam toàn thắng. Bài được nhắc lại nhiều lần từ đó đến nay và được chọn làm Lời dẫn cho cuốn sách “Chúng ta đã thắng trong cuộc chiến tranh này như thế nào” (How we won the war) của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, xuất bản năm 1976 tại Hoa Kỳ.

Đang có muôn vàn lý giải muộn màng về việc Hoa Kỳ đánh mất Đông Dương. Nhưng việc nên làm là nghĩ xem tại sao lực lượng nhân dân lấy được Đông Dương, và tại sao phong trào chống chiến tranh giúp họ làm được điều đó. Dưới đây là mười nhân tố, thiết nghĩ là chủ đạo, đem lại thắng lợi cho Việt Nam, kèm theo vài suy tưởng có lẽ hữu ích cho xã hội Hoa Kỳ.

1. Một chiến lược đấu tranh chính trị đi vào lòng người

Cho dù thắng lợi cuối cùng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một thắng lợi quân sự, trên thực tế, một chiến lược chính trị đã đưa cuộc cách mạng đó tới thành công. Bằng cách phát hiện và phân tích rõ các vấn đề chính trị trung tâm của đất nước, phong trào cách mạng đã động viên được toàn dân vào một cuộc đấu tranh toàn diện cả về chính trị và quân sự. Ở một đất nước có truyền thống song hành các hoạt động chính trị và quân sự như Việt Nam, sự phân tích tình hình chính trị và tầm nhìn xa đã đóng vai trò chỉ đạo đấu tranh vũ trang.

Về mặt chính trị, phong trào cách mạng của Việt Nam đã tác động và dẫn đường phong trào chống thực dân. Cách mạng đã tranh thủ được sự bất mãn của nông dân và công nhân đối với những luật lệ ngoại bang và duy trì được sự trung thành của hai giai cấp này sau khi nền thực dân kiểu Pháp bị các ý đồ thực dân mới của Mỹ hất cẳng. Mặt trận dân tộc giải phóng giành sự ủng hộ bằng cách bênh vực các quyền lợi bị xâm phạm của nông dân đối với địa chủ, cũng như của công nhân đối với giới tư bản. Đường lối chính trị này không những giúp người dân hiểu rõ những bất công, mà còn chỉ đường cho họ hành động. Kêu gọi được dân chúng cầm vũ khí và chia sẻ mất mát trong một cuộc đấu tranh chung, cách mạng luôn chiếm chỗ trong trái tim khối óc người dân, điều mà các nhà chiến lược Mỹ luôn mơ tưởng, nhưng chưa hề giành được.

2. Một chiến lược quân sự tuyệt vời

Về quân sự, Mặt trận dân tộc giải phóng và miền Bắc Việt Nam đã đánh giỏi hơn, hay hơn nhiều so với quân Mỹ cũng như các đồng minh của họ. Tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ chỉ huy quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời luôn ở thế chủ động, buộc đối thủ của họ phải bị động thúc thủ. Chiến lược chiến tranh nhân dân đã tổng hợp các chiến thuật du kích với các nền tảng khoa học quân sự kinh điển. Các tên lửa SAM hiện đại được sử dụng bên cạnh các vũ khí thô sơ. Cách áp dụng vũ khí không quy chuẩn của người Việt luôn làm cho đối phương lúng túng và bối rối. Khâu hoạch định và dự báo của Lầu Năm góc thường xuyên hụt hẫng. Các cuộc tiến công (của Quân giải phóng) không xảy ra vào lúc chúng được báo trước. Các trận đánh ít khi diễn ngoài ý muốn của Chính phủ Cách mạng lâm thời.

3. Truyền thống đấu tranh

Một trong những điểm dừng chân đầu tiên của tôi khi tới Hà Nội là các bảo tàng. Tôi biết rằng Hen-ri Kít-xinh-giơ cũng trải qua một liệu pháp như vậy. Kháng chiến chống ngoại xâm và các chế độ hà khắc là một cuốn biên niên sử dày của Việt Nam. Những người cách mạng Việt Nam nói rằng họ được thừa hưởng di sản hàng nghìn năm.

Viết trên báo Chủng tộc và Giai cấp, nhà sử học người Anh Tô-mát Hốt-kin đã từng sửng sốt về việc người Việt nhận thức rất sâu sắc lịch sử dân tộc mình. Ông viết: “Truyền thống này rõ ràng đã bám rễ trong xã hội Việt Nam, trong tổ chức cộng đồng. Nhưng quan trọng hơn là cách giáo dục truyền thống đó. Từ cổ đại, truyền từ đời này sang đời khác, người nông dân Việt Nam sở hữu một hiểu biết sâu rộng về các phương pháp cách mạng, một năng lực hành động trong tình thế cách mạng”.

4. Tình đoàn kết

Việt Nam, như tất cả các dân tộc khác, không phải lúc nào cũng là một khối thống nhất. Cũng đã từng có sự tỵ hiềm giữa các dân tộc, sự phân biệt tôn giáo và phân chia đẳng cấp.

Ngay từ khi ra đời, Đảng đã luôn thực hiện chương trình liên kết mọi lực lượng trong một cơ cấu xã hội kính nhường lẫn nhau. Mọi sắc tộc đoàn kết tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang dưới một chính quyền đại diện cho toàn dân.

Nhưng một khi chính phủ Mỹ chính thức định nghĩa rằng, đây là một cuộc chiến gây bởi sự xâm lăng của miền Bắc, báo giới Hoa Kỳ không thể nào đưa được tin Mặt trận dân tộc Giải phóng gọi nhập ngũ là ở miền Nam và được nhân dân miền Nam ủng hộ.

5. Giải phóng phụ nữ

Phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng ở mọi cấp độ trong cuộc cách mạng. Tướng Nguyễn Thị Định là Phó tư lệnh quân đội của Mặt trận dân tộc giải phóng, và còn nhiều phụ nữ khác nữa ở các cấp lãnh đạo cách mạng. Phong trào phụ nữ không hề tự phát mà gắn kết sâu rộng trong toàn dân... Phụ nữ chiếm một phần tư Quốc hội của Hà Nội. Chủ trương giải phóng phụ nữ được ghi nhận trong Hiến pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nếu phụ nữ không được giải phóng thì Chủ nghĩa xã hội chỉ mới xác lập được một nửa”. Chuyển biến cách mạng trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ rõ ràng là một trong những nhân tố đem lại toàn thắng.

6. Ý thức tổ chức kỷ luật cao

Những người Việt Nam luôn làm Lầu Năm góc kinh ngạc về năng lực chuyển quân và trang bị ra mặt trận bất chấp những điều kiện vô cùng khó khăn. Một bộ máy tổ chức cực kỳ hoàn thiện được hình thành để điều hành công việc của hàng triệu người một cách có kỷ cương. Nhưng hiệu quả của bộ máy này thực ra không chỉ thể hiện trong việc cơ động binh lực và vận tải hậu cần.

Những nhà cách mạng Việt Nam đã áp dụng cơ cấu tổ chức Đảng kiểu Mác-Lê nin vào hoàn cảnh cụ thể của nước họ. Nó cho phép truyền đi các hiệu lệnh của Đảng theo cách truyền đạt các mệnh lệnh nhà binh. Nó kiến tạo mạng lưới bí mật, tiến hành vận động quần chúng, đào tạo đội ngũ làm nền móng cho phát triển phong trào. Khách quốc tế thăm viếng Hà Nội đều kinh ngạc về vận hành của hệ thống này, cũng như cách thức thể chế hóa các quy chế dân chủ của nó. Các quan chức theo định kỳ đều phải tự phê bình trên báo Đảng nhằm chống thói quan liêu, mệnh lệnh.

Không giống với cánh tả ở Mỹ, người Việt Nam tin vào các lãnh tụ và chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh là chuẩn mực cho người lãnh đạo do lòng nhân ái và sự sâu sát với quần chúng của ông. Điều này giải thích vì sao theo một phúc trình của Tập đoàn RAND (một tổ chức điều tra xã hội học nổi tiếng ở Mỹ) chính phủ Bắc Việt nằm trong số những chính quyền được thế giới ưa chuộng nhất. Các lãnh tụ của Chính phủ Cách mạng lâm thời mà tôi gặp cũng có phong cách như vậy…

7. Gương mẫu: Lời nói đi đôi với việc làm

Ở vùng giải phóng, cũng như ở miền Bắc, những người cách mạng Việt Nam xây dựng một mạng lưới dịch vụ nhân đạo. Đó là các trường học và bệnh viện miễn phí. Miền Bắc tuyên bố rằng họ có sáu triệu rưỡi học sinh và sinh viên, một tỷ lệ theo đầu người cao hơn cả Hoa Kỳ. Người Việt hồi hộp đưa chúng tôi xem các chủ trương của họ, từ bảo đảm dinh dưỡng hằng ngày cho trẻ em cho đến các chương trình đào tạo. Bằng cách phục vụ nhu cầu của dân, cách mạng đã giành được sự ủng hộ của họ. Để tăng trưởng các nguồn nhân tài vật lực còn non yếu, việc nêu gương tốt là tác nhân làm cuộc sống ngày một đổi thay.

Bà mẹ miền Bắc và bà má miền Nam sau hơn 20 năm chiến tranh xa cách Ảnh: VÕ AN KHÁNH

8. Tình đoàn kết Đông Dương

Mặc dù ba nước Đông Dương có lịch sử và văn hóa khác nhau, người Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với Pa thét Lào và người Khơ-me. Khi người Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, ba phong trào cách mạng này đã tập hợp trong một mặt trận thống nhất để hỗ trợ lẫn nhau. Chiến thắng của Việt Nam kéo theo ngừng bắn ở Lào và thắng lợi của cách mạng Cam-pu-chia.

9. Tranh thủ được sự ủng hộ của nhân loại

Trong suốt cuộc chiến tranh, người Việt Nam luôn nâng niu sự hỗ trợ về chính trị của nhân dân và chính phủ các nước trên khắp thế giới. Việt Nam đã men theo lối đi chênh vênh bên vực thẳm của mối bất hòa Xô-Trung để có thể nhận viện trợ của cả hai siêu cường này.

Sự phản đối của thế giới đã đẩy chính phủ Hoa Kỳ vào chỗ bị cô lập, hạn chế những lựa chọn về sách lược và về biện pháp chiến tranh của họ.

Điều tối quan trọng là Việt Nam đã tiếp cận dân chúng Hoa Kỳ theo cách riêng, không đánh đồng chúng ta, những người Mỹ bình thường, với nhà cầm quyền. Đối với một dân tộc mà bom Mỹ hằng ngày giội xuống đầu, đó quả là một cử chỉ cao thượng, được cân nhắc và thực hiện nhất quán. Tôi đã gặp những nạn nhân của các cuộc không kích, những con người dũng cảm cố ghìm nén những xúc cảm tự nhiên để nhờ tôi chuyển lời chào tới những bạn Mỹ chống chiến tranh. Người Việt đã nhận thức rõ tầm quan trọng của phong trào chống chiến tranh. Họ hết lòng động viên phong trào này, hiểu rằng nếu tạo được một bầu không khí phản chiến thì cũng mở ra một triển vọng rõ rệt cho việc chấm dứt chiến tranh. Kết cuộc, thắng lợi của họ đã được gia tốc nhờ biểu quyết chống viện trợ thêm cho chính quyền Sài Gòn của quốc hội Hoa Kỳ. Phủ quyết này là tiếng vọng của công luận Mỹ được hun đúc bởi những người phản chiến.

10. Không dao động, không nóng vội

Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài mà một phía vũ trang bằng niềm tin sắt đá vào thắng lợi tất yếu của chính nghĩa. Cuộc đấu cũng là biểu tượng của tính kiên nhẫn và sức chịu đựng của họ. Bất chấp những thoái trào, bội bạc, thất tín... họ đã không chùn bước. Họ nhìn nhận cuộc cách mạng như một tiến trình nhiều giai đoạn với những thăng trầm của nó. Những cuộc gặp mà các nhà lãnh đạo miền Bắc dành cho tôi đều toát lên niềm tin vững chắc vào cái ngày mà ước nguyện của họ sẽ nở hoa kết trái…

Đấy là một trong những thông điệp mà chúng ta phải tiếp nhận từ Việt Nam. Khi nghiên cứu bài học Việt Nam, chúng ta không nên lẩn tránh một sự thật là Việt Nam đã đối đầu thành công một cách có phương pháp.

ĐAN-NY SCHẾCH-TƠ

LÊ ĐỖ HUY (trích dịch)