Niềm vui chiến thắng trên đường Trường Sơn. Ảnh tư liệu

Sự chỉ đạo của Tổng hành dinh (Kỳ 1)

Để chủ động chuẩn bị bước vào mùa khô 1967-1968, Bộ tư lệnh 559 đã chọn đường 20 làm hướng vượt khẩu chủ yếu, vì đường khá tốt và vào tới đường 9 gần hơn. Khoảng trung tuần tháng 10-1967 các khâu chuẩn bị trên tuyến đường vận chuyển chiến lược 559 đã hoàn tất. Mưa trên Trường Sơn đã giảm, đường se khô, mực nước sông suối xuống dần. Các lực lượng trên toàn tuyến đã tiếp cận khu vực cửa khẩu, sẵn sàng chờ lệnh. Cuối tháng 10, khi toàn tuyến 559 triển khai lệnh “vượt khẩu” cũng là thời điểm không quân địch tập trung đánh phá các cửa ngõ vào tuyến vận chuyển chiến lược của ta. Nhưng do chủ động phương án đối phó với địch lại tận dụng yếu tố bất ngờ nên chỉ sau 8 ngày “chiến dịch vượt khẩu mật tập, dứt điểm” đã hoàn thành kế hoạch. Đó là thắng lợi trận đầu trong mùa khô 1967-1968.

Nhưng rồi đã sớm xuất hiện một trong những khó khăn trực tiếp đối với tuyến đường vận chuyển chiến lược 559 ngay trong quá trình ta mở các đợt tiến công chiến lược Mậu Thân: Địch tung lực lượng ra chốt ở vùng tây Thừa Thiên hòng ngăn chặn ở một nơi hiểm yếu trên con đường vận chuyển chi viện của ta. Ngay sau khi nghe tin địch hành quân ra vùng A Lưới, ngày 23-4-1968 Bộ Tổng tham mưu đã báo cáo Thường trực Quân ủy về phương án tác chiến đánh địch. Hôm sau, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng điện cho Tư lệnh Đoàn 559 Đồng Sỹ Nguyên nhấn mạnh yêu cầu giữ vững quyết tâm làm đường vào Khu 5; sử dụng 3.000 quân bổ sung hiện đang ở binh trạm 7 làm lực lượng gùi thồ hàng vòng qua vùng địch tạm đóng, đồng thời hướng dẫn một số biện pháp xử trí nhằm bảo vệ an toàn số xe pháo của ta trong khu vực Binh trạm 7. Tiếp đó, ngày 29-4-1968, Bộ Tổng tham mưu lại gửi điện hướng dẫn kế hoạch cụ thể tổ chức các cụm chiến đấu đánh địch đóng chốt khu vực đường 12, bảo vệ kho tàng và hướng dẫn việc tổ chức lực lượng vận chuyển gùi thồ qua khu vực có địch. Điện nhấn mạnh: Trong bất cứ trường hợp nào, kể cả trường hợp địch nống ra chiếm đóng A Sầu, chúng ta vẫn giữ vững quyết tâm, dùng lực lượng các đoàn quân bổ sung ở gần nhất vào nhiệm vụ chiến đấu và tổ chức gùi thồ, bảo đảm cho Khu 5 và Trị Thiên theo kế hoạch đã được xác định. Cục Tác chiến còn cử phái viên vào Binh trạm 7 để nắm tình hình và trực tiếp giúp thực hiện quyết tâm của Bộ.

Cũng vào thời điểm này, trước tình hình địch tiếp tục tăng quân ra vùng tây Thừa Thiên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện khẩn cho các đồng chí Đồng Sỹ Nguyên và Trần Văn Quang nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp tục làm gấp đường đi Mang Sơn (đường B.47) theo yêu cầu của chiến trường, đồng thời dùng cả bộ binh và binh khí kỹ thuật đánh địch, bảo vệ kho tàng và giữ vững đường vận chuyển, cố gắng thực hiện cho được yêu cầu vượt mức dự trữ lớn nhất ở nam Đường 9 và xúc tiến làm đường mới ở đông Trường Sơn. Sau khi nhấn mạnh: Trong bất cứ trường hợp nào cũng không được để bộ đội thiếu thốn, bức điện của Tổng tư lệnh chỉ thị cụ thể một số biện pháp về điều động tăng cường trang bị cho lực lượng tác chiến và làm đường, lực lượng dự trữ, lập kế hoạch đối phó trường hợp địch hoạt động kéo dài hoặc đánh rộng ra vùng A Sầu. Tổng tư lệnh kêu gọi toàn tuyến phải nêu cao khẩu hiệu: “Đoàn 559 vừa là đội quân Hậu cần đồng thời phải là đội quân chiến đấu”.

Cũng từ tháng 4-1968, cùng với thủ đoạn tung quân nống ra tây Thừa Thiên, đế quốc Mỹ tập trung không quân đánh phá rất ác liệt nhiều điểm trên đường vận chuyển chiến lược 559 trong vùng “cán xoong” Khu 4. Đây là thủ đoạn mới của địch sau bước xuống thang thu hẹp phạm vi đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở vào, một thủ đoạn mà Tổng hành dinh đã dự báo cho Bộ Tư lệnh 559. Máy bay Mỹ tạo ra trên địa bàn Khu 4 nhiều “tam giác lửa”. Tháng 8, tháng 9 lại là cao điểm mùa mưa. Địch đánh song song với “trời đánh” làm cho giao thông vận chuyển vùng Khu 4 trở thành một mặt trận nóng bỏng. Khó khăn do địch gây nên đã lớn, khó khăn do thời tiết lại càng nghiêm trọng. Đúng như đồng chí Đồng Sỹ Nguyên nói, địch đánh chỉ tắc từng đoạn, còn “trời đánh” thì tắc toàn tuyến.

Thực hiện quyết tâm của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc thành lập hệ thống bảo đảm giao thông vận tải, khắc phục bằng được tình hình ách tắc giao thông trên địa bàn Khu 4 nhằm bảo đảm kế hoạch vận chuyển phục vụ cho kế hoạch Đông Xuân 1968-1969, có thể nói chưa bao giờ ba cơ quan quân sự Tổng hành dinh tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh quyết liệt với địch trên mặt trận giao thông vận tải như cuộc đấu tranh nhằm vượt qua những khó khăn ở vùng “cán xoong” trong suốt mấy tháng trước khi bước vào mùa khô Mậu Thân.

Ngày 22-8-1968, Bộ trưởng Quốc phòng quyết định thành lập Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Quân khu 4, do đồng chí Phan Trọng Tuệ làm Tư lệnh và đồng chí Lê Quang Hòa làm Chính ủy, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ cụ thể của Bộ Tư lệnh Giao thông vận tải Quân khu 4 là: Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị phòng không, bảo đảm giao thông, các đơn vị vận tải đang làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải ở Khu 4 và các ban bảo đảm giao thông vận tải các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và khu Vĩnh Linh về nhiệm vụ chiến đấu, bảo đảm giao thông, thực hiện kế hoạch vận tải; các mặt khác do đảng ủy các đơn vị và địa phương phụ trách.

Vào thời điểm bộ máy của Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4 đang trong quá trình hình thành và chuyển động, theo dõi công tác vận chuyển bảo đảm Hậu cần trên địa bàn Khu 4 (lúc này gồm 3 lực lượng của Tổng cục Hậu cần tiền phương, Đoàn 559 và phân Bộ Giao thông vận tải), Tổng hành dinh thấy cả ba tuyến đều không đạt kế hoạch đề ra. Thực tế đó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sắp tới của một số chiến trường. Một ví dụ là Tây Nguyên đang đứng trước khó khăn rất lớn về lương thực sau mấy tháng không nhận được gạo chi viện từ miền Bắc; gạo dự trữ chỉ còn đủ ăn đến tháng 10, không bảo đảm cho Tây Nguyên thực hiện kế hoạch Đông Xuân 1968-1969. Trước tình hình đó, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp điện gấp cho đồng chí Phạm Hùng ở B.2 đề nghị chỉ thị Hậu cần Nam Bộ tìm biện pháp đưa gạo lên chi viện cho B.3. Điện nêu rõ: Nếu chưa giải quyết được số lượng gạo chi viện cho Tây Nguyên theo kế hoạch 1969 thì trước mắt giao cho B.3 5.000 tấn còn lại của năm 1968.

Sau đó, trong ba ngày từ 28 đến 30-9-1968 Bí thư Quân ủy Võ Nguyên Giáp triệu tập cuộc họp Thường trực Quân ủy bàn và quyết định thêm một số biện pháp tích cực nhằm chỉ đạo các tuyến vận chuyển khắc phục tình trạng ùn tắc ở “vùng cổ chai” Khu 4. Cụ thể là phải điều chỉnh để có sự cân đối giữa ba tuyến; phải kết hợp nhiều hình thức vận chuyển (hiện đại và thô sơ), kết hợp nhiều đường, nhiều tuyến với phương tiện phù hợp với từng cung, từng đoạn đường vận chuyển khác nhau. Đồng thời Thường trực Quân ủy quyết định tăng cường cán bộ các binh trạm để bộ máy của Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4 nhanh chóng phát huy tác dụng chỉ đạo cụ thể.

Dự kiến sắp tới địch sẽ còn đánh mạnh đường vận chuyển chiến lược hơn nữa khi chúng buộc phải ngừng ném bom toàn bộ miền Bắc (nhằm phục vụ cho cuộc bầu cử tổng thống), ngày 2-10-1968, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện thông báo cho Bộ tư lệnh Đoàn 559 và Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4. Điện chỉ rõ: Trong trường hợp phải ngừng ném bom toàn bộ miền Bắc một thời gian, chắc chắn trước đó địch sẽ tập trung đánh mạnh hơn nữa vào các đầu mối giao thông, các kho tàng, kể cả những vùng bắc vĩ tuyến 19. Khi đã ngừng ném bom miền Bắc, chúng sẽ tập trung đánh tuyến đường 559, nhất là ở các cửa khẩu. Cùng với việc chỉ ra những biện pháp để Bộ Tư lệnh Đoàn 559 và Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4 chuẩn bị sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá mới của địch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cho ba Tổng cục khẩn trương nghiên cứu đề đạt thêm những biện pháp cơ bản nhằm khắc phục bằng được những khó khăn về giao thông vận tải trước tình hình mới, với tinh thần và quyết tâm không để ảnh hưởng đến kế hoạch chi viện cho chiến trường trong Đông Xuân 1968-1969.

Ngày 5-10, Thủ trưởng ba cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần Tổng hành dinh họp và đề nghị với Quân ủy một số biện pháp, như tăng cường hơn nữa về mặt nhận thức tư tưởng, về kiện toàn tổ chức và nền nếp làm việc của Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4 (thực chất phải là một cơ quan quân sự); củng cố cả hai tuyến vận tải phía tây (hiện thuộc Tổng cục Hậu cần tiền phương) và phía đông (hiện do Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo) và đặt cả hai tuyến này dưới sự chỉ đạo thống nhất của Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4 (chỉ riêng về mặt bảo đảm kế hoạch vận chuyển); ba Tổng cục có nhiệm vụ giúp Quân ủy trung ương nắm tình hình, nghiên cứu đề đạt và chỉ đạo Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4 như đối với một Bộ Tư lệnh Quân khu.

Hai ngày sau, Thường trực Quân ủy họp nghe báo cáo phương án của ba Tổng cục. Cuộc họp làm sáng tỏ thêm nhiều biện pháp mới phù hợp với tình hình cụ thể lúc đó. Kết thúc hội nghị, Bí thư Quân ủy Võ Nguyên Giáp kết luận hai vấn đề quan trọng: 1) Đồng ý những ý kiến về phương hướng củng cố Bộ tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4, về quan hệ giữa Bộ Tư lệnh này với các đầu mối và với Quân ủy; 2) Đồng ý giao cho tham mưu nghiên cứu việc thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh (trong dự án gọi là Bộ Tư lệnh tiền tuyến) nhằm phụ trách công tác bảo đảm giao thông vận chuyển trên tuyến đường 15; thành phần Bộ tư lệnh này sẽ do Thường trực Quân ủy nghiên cứu và chỉ định trong số các đồng chí thủ trưởng ba Tổng cục. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: Cần quan niệm việc thành lập Bộ tư lệnh tiền tuyến và những vấn đề củng cố, kiện toàn và tăng cường lực lượng cho các tuyến vận chuyển ở Quân khu 4, là nhằm thực hiện bằng được những chiến dịch vận chuyển có ý nghĩa chiến lược sau này.

Ngày 9-10-1968, Quân ủy Trung ương phê duyệt đề án tổ chức Bộ Tư lệnh tiền tuyến do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị (lúc này được mang tên chính thức là Bộ Tư lệnh 500). Sau khi thảo luận và cho ý kiến về các vấn đề liên quan đến tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ, Quân ủy trung ương nhất trí thông qua đề án thành lập Bộ tư lệnh 500.

Sau hai tuần chỉ đạo các tuyến vận chuyển đối phó quyết liệt với âm mưu đánh phá của không quân địch, từ ngày 14 đến 16-10-1968 Thường trực Quân ủy Trung ương họp đánh giá tình hình và nêu lên phương hướng bổ sung thêm một số biện pháp cần thiết. Cuối cùng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp kết luận: Tuy tổ chức thực hiện công tác bảo đảm mở rộng giao thông vận tải ở Khu 4 đã có nhiều cố gắng, nhưng chưa tạo được một sự chuyển biến quan trọng. Vì vậy phải có thêm những biện pháp đột xuất, kiên quyết đánh thắng địch ở đây, để thực hiện bằng được quyết tâm của Trung ương. Cụ thể là: 1) Đẩy mạnh việc vận chuyển trên toàn tuyến, tập trung trọng điểm tuyến phía tây Khu 4 và làm cho tuyến phía tây ngày càng vững chắc, độc lập; 2) Lập thêm các khu vực dự trữ mạnh ở nam và bắc Cầu Giát và khu vực Phủ Quỳ - Đô Lương; 3) Tổ chức chuyển tải và phải chỉ đạo tiến hành vững chắc chủ trương này; 4) Mở thêm tuyến vận tải mới từ Tân Kỳ xuống; 5) Tăng cường lực lượng cho tuyến vận chuyển do Bộ Giao thông vận tải phụ trách (tuyến phía đông Khu 4). Quá trình tiến hành các biện pháp trên cần chú ý không làm xáo trộn các tuyến về mặt tổ chức, phải vừa làm vừa đẩy công tác vận chuyển của các tuyến lên một bước mới, phải tranh thủ thời gian và khi cần, phải có các biện pháp khẩn cấp.

Trải qua mấy cuộc họp tiếp theo, cuối cùng ngày 28-10 Thường trực Quân ủy chính thức quyết định việc thành lập Bộ tư lệnh 500 (thay cho Bộ tư lệnh tiền phương Tổng cục Hậu cần trước đây), phụ trách tuyến vận chuyển phía tây Khu 4 bao gồm các đường 14, 12, 20, 21, 8, đường goòng, đường sông và những đường vận chuyển sắp mở ở phía tây Khu 4. Thường trực Quân ủy chỉ định các đồng chí Phó tổng tham mưu trưởng Nguyễn Đôn làm Tư lệnh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Quang Đạo làm Chính ủy, Chính ủy Bộ tư lệnh 559 Vũ Xuân Chiêm làm Phó chính ủy Bộ Tư lệnh 500.

(còn nữa)

TRẦN TRỌNG TRUNG