Cuối năm 1967, Khu ủy Trị Thiên - Huế dành nhiều thời gian để kiểm điểm toàn diện của cả năm 1967 và đề ra kế hoạch thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương đánh chiếm thành phố Huế tiêu diệt địch giữ một số ngày. Tôi tập trung nói về kế hoạch tác chiến đánh chiếm Thành phố Huế. Lúc này, Quân khu nhận được thông báo của Bộ Quốc phòng tăng cường cho Quân khu: Trung đoàn 9 của Sư đoàn 325; thêm lực lượng đặc công đủ 7 tiểu đoàn và 10 đội trong đó có 3 đội đặc

Đánh chiếm khu hầm ngầm ở Quảng Trị. Ảnh: internet

công nước, một tiểu đoàn ĐKB… để sang mùa Xuân năm 1968 tiến hành chiến dịch tập kích bất ngờ đồng loạt, chiếm lĩnh Thành phố Huế ngay trong đêm đầu. Những ngày sau đó tiếp tục diệt nốt các điểm địch còn lại, thực hiện tiêu diệt đại bộ phận lực lượng chiến đấu của Sư đoàn 1, rồi tiến hành phòng thủ để giữ vững thành phố, phát động nhân dân đứng lên làm chủ.

Phương châm hoạt động được đề ra là: Kết hợp tấn công với nổi dậy; kết hợp trụ lại thành phố với bung ra làm chủ nông thôn; kết hợp chiếm lĩnh thành phố với nhiệm vụ đánh quỵ Sư đoàn 1.

Toàn Quân khu chia làm 3 mặt trận: Mặt trận chủ yếu của Quân khu là thành phố Huế; mặt trận phía bắc là Quảng Trị để phối hợp với Huế; mặt trận phía nam từ Cầu Hai đến đèo Hải Vân là mặt trận chặn quân tiếp viện từ Đà Nẵng ra.

Mặt trận Huế lại chia làm 2 cánh: Cánh Bắc (có Thành Cổ): Lực lượng chiến đấu gồm có Trung đoàn 6 được tăng cường một tiểu đoàn của trung đoàn 9 cộng 3 tiểu đoàn đặc công và 5 đội trong đó có 2 đội đặc công nước và biệt động. Nhiệm vụ là: Tiêu diệt chỉ huy sở Sư đoàn 1 tại Mang Cá; tiêu diệt tiểu đoàn bảo vệ sân bay Tây Lộc đồng thời đánh chiếm nhanh cửa chính tây, An Hò, cửa Hữu Thượng Tứ, Ngọ Môn và cửa ra chợ Đông Ba, tiêu diệt bọn thám báo ở cung đại nội và cột cờ của thành phố. Kéo cờ Mặt trận Giải phóng lên cột cờ. Sử dụng đội đặc công nước đánh sập 2 cầu Tràng Tiền và Bạch Hổ. Ngày hôm sau, tiếp tục tiêu diệt địch, đưa dân lên làm chủ chiếm lĩnh Thành Cổ, để bảo đảm giữ Thành phố Huế lâu dài… Chỉ huy trưởng là đồng chí Thu - Tham mưu phó Quân khu; Chính ủy là đồng chí Văn - Khu ủy viên.

Cánh phía nam: Lực lượng gồm có Trung đoàn 9 thuộc Sư đoàn 325, một tiểu đoàn bộ binh của thành phố, hai tiểu đoàn và bốn đại đội đặc công được tăng cường 40 khẩu B41 cộng với biệt động thành. Ngay giờ đầu, phải tiêu diệt Trung đoàn thiết giáp số 7 ở núi Tam Thai, phân khu quân sự của Thừa Thiên đóng ở Phan Sào Nam; tiểu đoàn cảnh sát dã chiến; đoàn cố vấn và tình báo Mỹ đóng tại khách sạn Hương Giang; chiếm đài phát thanh, phá nhà lao Thừa Phủ.

Chỉ huy cánh nam: Chỉ huy trưởng là đồng chí Thân Trọng Một, chỉ huy phó là đồng chí Kháng - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9; Chính ủy là đồng chí Vạn - Khu ủy viên; Phó chính ủy là đồng chí Lê Khả Phiêu - Chính ủy Trung đoàn 9.

Mặt trận Quảng Trị, lực lượng có Trung đoàn 2 của Sư đoàn 324, một tiểu đoàn của tỉnh cộng với 5 đại đội của các huyện; 2 tiểu đoàn đặc công. Nhiệm vụ được giao là tiêu diệt căn cứ Trung đoàn 1 ở La Vang, đánh chiếm Thành cổ Quảng Trị, trụ lại tiếp tục tiêu diệt địch để các đại đội cấp huyện bung ra phát động quần chúng đứng dậy làm chủ nông thôn… Chỉ huy trưởng mặt trận là đồng chí Sơn Nham. Đồng chí Thanh Quảng - Phó chính ủy Quân khu xuống trực tiếp đảm nhiệm Chính ủy mặt trận.

Mặt trận Phú Lộc, tiêu diệt địch ở Phú Lộc, đánh sập Cầu Hai; bố trí lực lượng sẵn sàng đánh viện binh không cho địch từ Đà Nẵng ra tiếp viện cho Huế; phát động nhân dân huyện Phú Lộc đứng dậy làm chủ.

Chỉ huy trưởng mặt trận là đồng chí Chi - nguyên là Tỉnh đội trưởng Thừa Thiên; Chính ủy là đồng chí Vũ Thắng-Phó bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, kiêm Chính trị viên Tỉnh đội.

Quy định trước khi nổ súng 10 ngày, Thường vụ Khu ủy duyệt kế hoạch các mặt trận. Cuối tháng 10-1967, Trung ương cử đồng chí Lê Ngọc Hiền vào B5 đóng trên đất Quảng Bình rồi điện cho Khu ủy cử người ra nhận nhiệm vụ mới của Bộ Chính trị giao. Thường vụ Khu ủy cử đồng chí Lê Chưởng ra nhận Nghị quyết của Bộ Chính trị về nhiệm vụ “Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ cho khu Trị Thiên - Huế: Mặt trận Đường 9 đánh vỡ phòng tuyến phòng ngự của quân Mỹ, tiêu diệt thật nhiều địch tạo điều kiện cô lập quân Mỹ. Quân khu Trị Thiên-Huế tiến hành khởi nghĩa đồng loạt; lấy đánh chiếm Thành phố Huế là trung tâm, giải phóng địa bàn, phát triển lực lượng võ trang, đánh thắng các trận phản kích. Thực hiện theo phương châm kết hợp giữa công kích và khởi nghĩa lấy khởi nghĩa là chính. Lực lượng tại chỗ và cơ động, lấy tại chỗ là chính.

Chính vì lấy lực lượng tại chỗ là chính nên anh Nguyễn Trọng Vĩnh-Thứ trưởng Bộ Quốc phòng điện cho tôi hủy lệnh của anh Võ Nguyên Giáp đã thông qua kế hoạch tăng cường cho Huế một sư đoàn thiếu làm dự bị cho chiến dịch đánh Huế. Để tiêu diệt các điểm co cụm bằng chiến thuật đánh công sự vững chắc, khi họp Thường vụ Khu ủy quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị quyết định phải chấp hành nghiêm túc. Khẩn trương triển khai tập trung cán bộ cơ sở ở đồng bằng và thành phố lên khu giải phóng để tập huấn về phương pháp lãnh đạo và khởi nghĩa. Hàng nghìn người kéo lên vùng giải phóng để học tập, khẩn trương triển khai xây dựng chính quyền liên hiệp trung lập.

Tôi xin ý kiến và hỏi anh Trần Văn Quang về kế hoạch đánh thành phố có gì thay đổi không? Anh Trần Văn Quang trả lời: “Giữ nguyên kế hoạch cũ không có gì thay đổi”. Thế là tôi yên tâm.

Thường vụ Khu ủy chỉ định Bộ Tư lệnh chỉ huy chiến dịch Tổng công kích và khởi nghĩa Thành phố Huế như sau: Tư lệnh trưởng chỉ huy chiến dịch là đồng chí Lê Minh - Phó bí thư Khu ủy đồng thời là Bí thư Thành ủy Huế; Đồng chí Nam Long mới từ Khu 4 vào làm Phó Tư lệnh; Đồng chí Lê Chưởng làm Chính ủy; Đồng chí Đặng Kinh là Chỉ huy phó, Tham mưu trưởng.

Thời gian mở đầu thống nhất toàn miền Nam do Bộ Chính trị quyết định đồng loạt nổ súng đúng giờ Giao thừa Tết Mậu Thân (31 tháng Giêng năm 1968). Khi họp Thường vụ Khu ủy, anh Quang hỏi riêng tôi có ý kiến gì không? Tôi phát biểu: Chấp hành Nghị quyết Bộ Chính trị phải nghiêm chỉnh. Nhưng đến giờ hành quân tôi xin phát biểu mấy ý kiến riêng.

Ngày 24-12-1967, Thường vụ Khu ủy họp các chỉ huy hai cánh Bắc-Nam của Huế duyệt kế hoạch tác chiến. Thường vụ có mặt gồm: Đồng chí Lê Minh - Phó Bí thư Khu ủy chủ trì; đồng chí Lê Chưởng; đồng chí Nam Long (đồng chí Trần Văn Quang vắng mặt); các cán bộ chỉ huy các cánh đều có mặt đủ.

Sau khi hai cánh báo cáo kế hoạch xong, tôi xin phát biểu ý kiến cá nhân về nội dung trong Nghị quyết Bộ Chính trị: Hiện nay, Mỹ đã có 3 sư đoàn thiếu với quân số 4.500. Nếu ta mở chiến dịch thì khả năng của quân Mỹ ra Trị Thiên - Huế lên hơn 8 vạn. Quân ngụy cũng có khả năng đưa ra cả 2 sư đoàn thủy quân lục chiến và quân dù thêm 15.000 đến 20.000 quân ngụy nữa. Từ đó, tương quan lực lượng địch chiếm ưu thế tại chiến trường và nên chủ trương lấy khởi nghĩa là chính. Quân Mỹ trên Đường 9 cũng chưa có khả năng đánh vỡ được. Như vậy, đối với Trị Thiên - Huế khó có khả năng giải phóng được và trung lập quân Mỹ càng khó khăn… Tôi phát biểu như vậy, để nếu các anh thấy có khả năng, cần có kế hoạch bước sau khi đánh ta phải rút không để lộ hết lực lượng, nhất là cơ sở bí mật nằm vùng trong thành phố và nông thôn, khó khăn mấy ta vẫn giữ được lực lượng nòng cốt…

Tôi phát biểu xong, anh Lê Minh nói: Tất cả mọi người nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị, còn suy nghĩ riêng của đồng chí Đặng Kinh được bảo lưu, bây giờ cứ nghiêm chỉnh chấp hành theo Bộ Chính trị…

Đã 2 giờ 30 phút ngày 31-1-1968, tức Mồng một Tết âm lịch. Sợ để lâu sẽ ảnh hưởng lớn tới kế hoạch chung, tôi đề nghị cho ĐKZb cánh Nam nổ súng để thay lệnh. Được sự đồng ý của Sở chỉ huy cơ bản, tôi ra lệnh cho ĐKZb nổ súng lập tức. Hầu như đồng thời, toàn bộ Mặt trận-cả trong và khu ven Thành Huế - đâu đâu cũng nghe thấy súng nổ vang trời. Quân địch bị bất ngờ, hoảng loạn. Nhân dân và các lực lượng ta vô cùng phấn khởi, náo nức giúp đỡ bộ đội, nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của cán bộ giải phóng, chuẩn bị nổi dậy, diệt ác, phá kìm, khởi nghĩa giành chính quyền.

Các cánh, các mũi liên tiếp báo về tin thắng lợi và tình hình chiến đấu tại chỗ. Một không khí phấn khởi rạo rực tràn ngập sở chỉ huy.

Sáng 1-2-1968, bộ phận tác chiến tổng hợp tình hình báo cáo: Tất cả các đơn vị ta trên toàn Mặt trận đều nổ súng kịp thời, phát triển chiến đấu tốt. Riêng một số nơi có khó khăn, ta phải chiến đấu giành giật quyết liệt với địch ngay từ ban đầu như ở Mang Cá và sân bay Tây Lộc.

Trên Cánh Bắc: ở khu Đại Nội (Cột cờ), ta đã diệt được đơn vị Hắc Báo của địch và đang chuẩn bị để kéo cờ; chiếm được khu Gia Hội, chợ Đông Ba, các công sở ngụy quyền… Ở các mục tiêu vành ngoài, ta đã diệt gần một tiểu đoàn địch ở Kim Long, Kẻ Vạn, đánh tiêu hao nặng gần một tiểu đoàn khác ở Vạn Thành, chiếm được các cầu: Bạch Hổ, An Hòa, Bổn Tứ, An Lưu, La Chữ…

Ở cánh Nam: Ta đã diệt được số lớn quân địch ở Tiểu khu Phan Sào Nam, đánh chiếm sở chỉ huy cảnh sát dã chiến, tiến công vào cơ quan CIA và hai khách sạn Thuận Hóa, Hương Giang, diệt và bắt sống một số tên Mỹ, đánh chiếm đài phát thanh Huế, các cầu Kho Rèn, Ngã Sáu, cơ quan đại diện Chính phủ Trung phần, dinh tỉnh trưởng, Khu công binh Bàu Ghè, xưởng quân cụ, nhà lao Thừa Phủ và nhà Thẩm vấn, giải phóng hơn 2.000 đồng chí, đồng bào ta bị địch giam giữ ở đây. Ở vành ngoài, ta tiến công tiêu diệt Trung đoàn 7 thiết giáp ngụy tại Tam Thai, tiểu đoàn quân vận Lê Lợi và tiểu đoàn công binh ở Nam Giao, tiêu hao nặng 2 tiểu đoàn ngụy ở Tam Động và một đại đội quân Nam Hàn ở Tân Lãng, bắt và trừng trị bọn phản động ác ôn đầu sỏ.

Như vậy, đến sáng 1-2-1968 (tức mồng 1 Tết Mậu Thân), ta đã chiếm được hầu hết các mục tiêu chủ yếu đề ra, làm chủ thành phố. Riêng ở đồn Mang Cá, địch vẫn cố thủ ở hầm ngầm và liên tục phản kích. Đến 9 giờ ngày mồng một Tết Mậu Thân, lá cờ Mặt trận giải phóng dài rộng đã tung bay trên đỉnh cột cờ Đại Nội, trước Ngọ Môn, làm nức lòng quân và dân toàn Mặt trận, báo hiệu Thành Huế được giải phóng.

Các lực lượng dân vận, địch vận tỏa đi các nơi làm công tác vận động quần chúng, kêu gọi và tổ chức đồng bào tham gia diệt ác trừ gian, thu gom tài liệu, vũ khí, vận động ngụy quân, ngụy quyền còn lẩn trốn ra đầu thú… Chính quyền từ phường, vạn, đến khu phố được thành lập. Hưởng ứng sự vận động của UBND cách mạng thành phố Huế, đông đảo nhân dân nội, ngoại thành vừa ra sức góp phần vào nhiệm vụ chiến đấu, ổn định trị an, vừa tổ chức đào hầm, hào đề phòng địch phản kích bằng hỏa lực, bom đạn vừa để giúp bộ đội bám trụ lâu dài…

Thành công rực rỡ của Mặt trận Huế là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời chặt chẽ… của trên, nhờ tinh thần cách mạng tiến công và ý chí quyết tâm chiến thắng cùng những nỗ lực phi thường của Đảng bộ và quân, dân tại chỗ. Song, cũng còn là nhờ ở sự phối hợp đánh địch, thiết thực chia lửa với Mặt trận Huế của quân, dân Quảng Trị, của vùng ven Phú Vang, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Lộc, Phong Điền… và mặt trận Đường 9.

Sau một tuần chiến đấu quyết liệt và lập công xuất sắc, do việc bổ sung và thay quân có hạn nên sức chiến đấu của ta phần nào giảm sút. Trong khi đó, địch qua cơn choáng váng, một mặt phục hồi được lực lượng tại chỗ, mặt khác đưa quân từ phía Nam ra, tích cực phản kích, đánh chiếm lại các căn cứ bị mất, dần dần tạo so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho chúng.

Tuy nhiên, nếu so sánh cả hai cánh Bắc, Nam thì tình hình cánh Nam đỡ khó khăn hơn. Vì vậy, sau khi thu xếp xong công việc, tôi quay về cánh Bắc để góp phần vào việc chỉ huy chung. Vì các anh Lê Minh và Nam Long lúc ấy đang bận ở các trọng điểm có khó khăn nên tôi nắm tình hình ở Sở chỉ huy và gọi điện về anh Trần Văn Quang - Tư lệnh Quân khu. Anh hỏi tôi: “Có ý kiến cho rút, ý anh thấy thế nào?”. Tôi trình bày các suy nghĩ, nhận định cá nhân và báo cáo anh về khả năng: “Ta còn có thể chiến đấu, bám trụ giữ được thành phố thêm ít ngày nữa!”. Sau một hồi suy xét, anh Quang quyết định: “Tiếp tục chiến đấu bám trụ giữ thành phố” và báo cáo quyết tâm đó ra Bộ. Bộ phê chuẩn và điện khen chúng tôi đã nghĩ và làm đúng với ý cấp trên, đồng thời cho biết: Bộ sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu do Mặt trận đề nghị.

Thế là với quyết tâm của Mặt trận, cùng với sức chiến đấu phi thường của quân và dân Thành Huế và sự chi viện tích cực của trên, cuối cùng, chúng tôi đã giữ được Thành phố Huế cho đến ngày thứ 25, khi mà các yêu cầu của nhiệm vụ chiến dịch và chiến lược đề ra đã được hoàn thành.

Trung tướng Đặng Kinh

(Nguyên Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam)