 |
Ông Lê Hữu Kiển với những cầu ong mật, tháng 12-2005 |
Chiều thu cao nguyên, trong nghĩa trang liệt sĩ thành phố Buôn Ma Thuột trên ngôi mộ mới giản dị có một bó cúc quỳ vàng rực của các đồng đội vừa đem đến. Những mái đầu bạc cúi thấp, những đôi mắt buồn lặng nhìn những sợi khói hương bảng lảng bay. Già làng Ama Tia ở buôn Thinh, huyện Ma-đrắc nghẹn ngào “Kiển ơi! Mình và đồng đội thay mặt buôn làng về thăm bạn đây...” - ông nấc lên.
Bạn của già làng chính là Anh hùng LLVT nhân dân Lê Hữu Kiển. Quê ở Quảng Ngọc, Quảng Xương, Thanh Hóa, nhưng trong suốt hai cuộc kháng chiến ông Kiển là người của buôn làng, cũng đóng khố, cũng cởi trần, cũng làm nương, làm rẫy, viết chữ và nói tiếng đồng bào. Tôi quen ông trong hội nghị “Biểu dương những người lao động giỏi” tổ chức ở Gia Lai. Khi ấy, ông đã 75 tuổi, bị thương hai chân, vẫn chạy xe máy ngày 4 lần đến dự hội nghị. Ông bảo: “Mình đi xe máy, để lúc rảnh rỗi còn đến thăm bà con và đồng đội của mình trong thành phố”.
Ngày 20-10-1945 ông lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Đến đất khu 5 ông tham gia hàng trăm trận đánh từ Quảng Ngãi đến đèo Phượng Hoàng. Những ngày ấy ông được nhạc sĩ, nhà thơ Lưu Trọng Lư dạy học văn hóa với quyết tâm “có tri thức để xây dựng quân đội lâu dài”. Năm 1947 từ đơn vị ông được cử lên làm bảo vệ cho đồng chí Phạm Văn Đồng lúc đó là đại diện cho Đảng và Chính phủ ta ở Nam Trung bộ. Ông khoe: “Lần nào đi công tác bác Phạm Văn Đồng cũng dặn dò chúng tôi rất kỹ về công tác chuẩn bị, để đến địa phương không phiền toái đồng bào. Ba năm làm bảo vệ cho bác Đồng tôi trở nên trầm tĩnh hơn, xử lý công việc nhanh hơn, khoa học và cẩn thận hơn”. Năm 1948 khi đồng chí Phạm Văn Đồng chuẩn bị ra Bắc, đã tặng ông con ngựa và bộ quần áo. Con ngựa, ông bán được 300 đồng đem chia đều cho anh em trong đơn vị, còn bộ quần áo thì giữ làm kỷ niệm. Vào đơn vị chiến đấu, ông bị thương đứt gân gót chân khi cùng đồng đội chặn địch ở chân núi Phượng Hoàng.
Tập kết ra Bắc, năm 1959 đang chỉ huy cuộc diễn tập tiểu đoàn thì nhận lệnh của cấp trên về Hà Nội ngay để nhận nhiệm vụ. Ông vừa hồi hộp vừa lo: “Không biết có việc gì mà cấp trên triệu tập gấp thế!”. Nhưng cũng trong lần ấy, một vinh dự bất ngờ đã đến với ông. Ông được gặp Bác Hồ. Ông kể: “Chúng tôi gồm 30 người về nhận nhiệm vụ thành lập đường giao liên từ Bắc đường 21 đến miền Đông Nam bộ để tiếp tế cho vùng Đông Nam bộ và miền Trung. Dặn dò chúng tôi rất kỹ, Bác hỏi: “Các chú có nguyện vọng gì không?”. Tôi thay mặt anh em rụt rè đề nghị: “Chúng cháu rất cần súng đạn để chiến đấu với địch”. Cười hiền dịu, Bác nói: “Các chú giữ cặp giò cho tốt mới đi tới nơi; lấy khối óc, trái tim và cách nói để thuyết phục đồng bào hiểu về cách mạng, làm cách mạng. Còn cần súng thì miền Bắc sẽ có súng cho các chú”. Nói xong Bác tặng chúng tôi mỗi người một gói kẹo, một bao thuốc lá Thăng Long. Món quà của Bác ông cất tận đáy ba lô với ý định vào đến Tây Nguyên làm quà cho đồng bào, cho đơn vị nơi ông công tác. Hai năm lăn lộn, đi lại, vận động bà con, đụng địch hàng trăm lần. Đến năm 1961 ông và các đồng chí trong đội công tác đã xây dựng xong đường dây giao liên dài hơn 200km, nối Bắc đường 21 huyện Lắc, đến giáp miền Đông Nam bộ. Ông nhớ lại: “Ngày 19-5-1961 nhân sinh nhật Bác, chúng tôi bắt đầu đưa khách, ban đầu đi lẻ vài người, sau đó đi đông có khi lên tới cả tiểu đoàn, trung đoàn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá đường dây giao liên của chúng tôi là chiếc đòn gánh, gánh cả khu 5 và Nam bộ”.
Lần thứ ba ông vào Tây Nguyên là năm 1971 sau lần ông bị thương được đưa ra điều trị ở bệnh viện 108. Cả người ông dính đầy mảnh đạn, chân trái mất một đoạn xương ống. Lần ấy ông quyết tâm xin trở lại chiến trường bằng cách rèn luyện, cho gạch vào ba lô mỗi sáng chạy 3 km liên tục trong ba tháng trời. Trở lại Buôn Ma Thuột ông được cấp trên điều về làm tỉnh đội trưởng Đắc Lắc để chuẩn bị lực lượng tại chỗ cho cuộc Tổng tiến công mùa xuân năm 1975. Và năm 1978 được phong tặng danh hiệu cao quí Anh hùng LLVT nhân dân; ba năm sau ông về nghỉ hưu, xin đưa vợ con vào, ở lại luôn Tây Nguyên vẫn với cấp bậc trung tá.
Ba lần ở Tây Nguyên với hơn 60 năm sống và chiến đấu ở đất này, thấy gia đình khó khăn chưa có nhà ở, Bộ CHQS tỉnh cấp nhà cho ông ở ngay trên phố Hùng Vương, thành phố Buôn Ma Thuột, nhưng thấy nhiều đồng chí còn khó khăn ông trả lại cho tỉnh, bỏ tiền mua một miếng đất nhỏ ở vùng ven, dựng căn nhà cấp 4, cùng vợ và 4 con bắt đầu công cuộc chinh phục những đàn ong. Từ nuôi ong ông xây được căn nhà 4 tầng khang trang, rộng rãi, có điều kiện giúp đỡ các thương binh ở phường và hàng chục đồng đội của ông mà như ông nói: “Trên đất Tây Nguyên, “ở đâu tôi cũng có người thân, có đồng đội”. Những ngày “chỉ huy đoàn quân ong” đi khắp cánh rừng già ở Tây Nguyên ông có dịp quay lại những địa phương từng cưu mang, nuôi dưỡng ông, đến những nơi mà nhiều đồng đội ông đã nằm xuống vĩnh viễn. Một lần ông đến ấp Tuy Hòa, nơi 48 đồng đội của ông hy sinh mà đến nay chưa tìm được phần mộ. Vào gặp xã, ông cùng bà con trong buôn tìm 10 ngày liền mà không thấy. Đến buổi trưa thứ 11, ông và bà con ngồi ăn cơm dưới gốc cây bơ nhìn thấy một bụi tre dày đặc, như có linh tính, ông buông bát đũa, cùng dân làng chạy lại, đào đến 22 giờ đêm thì tìm thấy 48 hài cốt đồng đội.
Trước cửa ban công phòng ông ở có 4 dò phong lan thật đẹp đang nở hoa. Đó là những dò phong lan ông lấy được trong các lần đi tìm mộ đồng đội. Ông ước ao: “Giá mà còn sức khỏe, tôi sẽ tìm hết mộ đồng đội của tôi. Sự sống và chết là hai mặt trái ngược nhau, nhưng vẫn tồn tại bên nhau. Điều căn bản của con người là phải sống thế nào và chết thế nào?”. Trong căn phòng nhỏ đồ đạc đơn sơ ông cất giữ những kỷ vật, những hình ảnh, bài báo và thư từ, những cuốn nhật ký của đồng đội của ông. Ông khoe với tôi chiếc gậy Trường Sơn lên nước đen bóng, chiếc võng bạc phếch, chiếc ba lô con cóc lỗ chỗ vết đạn và vài đầu đạn được các bác sĩ gắp ra trong người ông sau những lần phẫu thuật. Mỗi lần đi họp phụ huynh cho cháu nội, các thầy, các cô giáo thường đùa: “Bác già rồi, sao không nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, nuôi ong làm gì cho mệt”. Ông cười hiền: “Có việc làm như tôi bây giờ là sung sướng lắm”.
Nhiều cán bộ quân đội của Bộ CHQS tỉnh Đắc Lắc đến thăm ông, ông thường nói với họ: “Bộ đội địa phương “chui sâu leo cao” như con tốt trong bàn cờ. Bàn cờ có tới 5 con tốt. Khi tốt đã nhập cung thì tướng và hậu cùng phải chịu đầu hàng”.
Đầu đông năm 2005, có lần tôi gặp ông một mình đi trong nghĩa trang liệt sĩ Buôn Ma Thuột, trời mưa như rây bột, ông cần mẫn lấy tay lau lớp bụi đỏ phủ lên mặt những tấm bia đá màu xám vẫn chưa đề tên liệt sĩ, miệng lẩm bẩm: “Cậu quê ở đâu, tên gì, sao không báo mộng cho mình. Hôm nay mình đến thắp cho cậu nén nhang”.
Đầu năm nay, khi nghe tin ông ốm, tôi lên tàu với ý định vừa đi công tác vừa đến thăm ông. Nhưng không kịp… Tôi lặng người khi nghe một người đồng đội của ông báo tin: “Anh Kiển đã vĩnh viễn nằm xuống”. Mua một bó nhang, mười bông huệ trắng tôi đến mộ viếng ông… Quay lại nhà ông, từ dưới đường nhìn lên tôi thấy 3 tổ ong, ông treo trên ban công. Những con ong thợ vẫn cần mẫn lấy hoa, nhả mật, như ông một đời gắn bó với đồng bào Tây Nguyên. Bà con ở phường gọi ông là ông Anh hùng Tây Nguyên…
Bài và ảnh: VŨ ĐẠT