QĐND -  Trên thế giới, chiến tranh thông thường chỉ có hai loại hình: Chiến tranh xâm lược và chiến tranh chống xâm lược, mà Ph.Ăng-ghen gọi là “chiến tranh tiến công”, “chiến tranh phòng ngự”. Ở Việt Nam, một đất nước có vị trí địa - chính trị - quân sự quan trọng nên thường xuyên bị xâm lược. Vì vậy, bên cạnh loại hình đấu tranh vũ trang là chiến tranh nhân dân chống xâm lược, dưới thời Bắc thuộc đã xuất hiện loại hình khởi nghĩa vũ trang. Và để giành lại chính quyền thì nhất thiết phải là khởi nghĩa toàn dân. Đó là một sự đóng góp về trí tuệ của quân và dân ta trong văn hóa quân sự. Khởi nghĩa có thể thành công hoặc thất bại, lại cũng có khi vì tương quan lực lượng giữa nghĩa quân với chính quyền đô hộ, cuộc khởi nghĩa phải kéo dài và chuyển thành chiến tranh giải phóng dân tộc. Loại hình đấu tranh vũ trang này ra đời từ thế kỷ III nhưng gặp nhiều khó khăn, không xây dựng được một hậu phương vững chắc cho chiến tranh nên phải đến thế kỷ XV, mới giành được thắng lợi. Nhờ kế thừa kinh nghiệm khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, đến thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân ta đã đưa cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và các cuộc chiến tranh giải phóng trong 30 năm sau đó phát triển lên một bước mới.

Đặc điểm lớn nhất của các tổ chức quân sự ở nước ta là thường ra đời đồng thời với chiến tranh nhân dân chống xâm lược. Mà việc tiến hành chiến tranh nhân dân chống xâm lược ở nước ta bao giờ cũng hình thành hai phương thức, như đã nói: Phương thức chiến tranh nhân dân địa phương và phương thức của các binh đoàn chủ lực, cho nên các tổ chức quân sự ở nước ta, dù giai cấp phong kiến, giai cấp nông dân hay giai cấp công nhân tổ chức ra, bao giờ cũng bao gồm hai thành phần: thành phần nòng cốt là lực lượng vũ trang thường trực và thành phần rộng rãi là quần chúng vũ trang.

Nếu như trong chiến tranh, khi thấy hai phương thức đó chưa được cân đối thì việc tổ chức lực lượng vũ trang cũng phải điều chỉnh (linh hoạt) để phục vụ cho việc cân đối đó. Việc làm này được thể hiện rất rõ trong cuộc Kháng chiến chống Pháp. Mặc dù ngày 26-8-1947, Chính phủ đã ra sắc lệnh thành lập đại đoàn độc lập, trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy. Nhưng Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp thấy lúc đó muốn đưa cuộc kháng chiến tiến lên một cách vững chắc, chưa phải là lúc tập trung bộ đội thành đại đoàn, chuẩn bị những trận đánh lớn mà phải có một quá trình rèn luyện thích hợp cho bộ đội ta từ thấp đến cao, một quá trình kiên nhẫn, lâu dài. Ta đề ra kháng chiến toàn dân, toàn diện nhưng phong trào chiến tranh du kích ở địch hậu phát triển chưa mạnh. Vì vậy, cần phải đưa ngay một bộ phận quân chủ lực, phân tán thành đại đội về những địa phương ở vùng sau lưng địch để phát động chiến tranh du kích. Bộ đội chủ lực ở Khu và Bộ vào thời điểm ấy chỉ nên tổ chức tập trung ở qui mô tiểu đoàn. Qui mô đó là phù hợp với chiến thuật du kích vận động chiến. Trên cơ sở tình hình lúc đó, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đề nghị một công thức cụ thể: “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Khi nào địa phương đủ mạnh thì chủ lực sẽ rút. Địa phương càng mạnh thì lại càng phải tiếp tục bổ sung cho chủ lực. Trong vài ba năm trước mắt, cần phải hoạt động chiến tranh du kích rộng khắp. Nhưng cuối cùng, muốn có chiến thắng quyết định, nhất thiết phải có một đội quân chủ lực thật mạnh. Vì vậy, tháng 8-1949, đại đoàn 308 được thành lập để đưa vào chiến dịch Biên Giới và tiếp sau đó là sự ra đời của một số đại đoàn nữa để kịp thời đưa vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Rồi chuyện thay đổi cách đánh trong chiến dịch Điện Biên Phủ (đã được báo chí viết rất kĩ) thể hiện tư duy quân sự rất linh hoạt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, dẫn đến thắng lợi lịch sử.

Trong kháng chiến chống Mĩ cũng vậy, Binh đoàn chiến dịch - chiến lược đầu tiên là Binh đoàn B70 - tương đương cấp quân đoàn - được thành lập vào tháng 10-1970, đã tiến hành một chiến dịch phản công qui mô lớn nhất lúc bấy giờ, đánh bại sự cố gắng cao nhất của quân Mĩ - ngụy trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. 5 năm sau, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ta đã dùng 4 quân đoàn và binh đoàn 232 - tương đương một quân đoàn - theo 5 hướng cùng tiến công vào Sài Gòn.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm các lão dân quân Hoằng Hóa, Thanh Hóa- đơn vị bắn rơi máy bay Mỹ. Ảnh Tư liệu.

Phương tiện tiến hành chiến tranh cùng với con người là vũ khí. Tuy không giữ vai trò quyết định nhưng vũ khí cũng có một vị trí rất quan trọng và nếu biết sử dụng nó một cách thích hợp sẽ làm cho hiệu quả chiến đấu của bộ đội tăng lên gấp bội. Điều này được thể hiện rất rõ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa qua. Ở đây chỉ xin nêu rõ tính linh hoạt về sử dụng binh khí - kĩ thuật qua hai đặc trưng.

Thứ nhất là tính đan xen giữa các thế hệ vũ khí, xét theo quan điểm tiến hóa công nghệ quân sự trong diễn trình lịch sử chiến tranh của loài người: vũ khí lạnh, vũ khí nóng, vũ khí hạt nhân và vũ khí công nghệ cao.

Đặc trưng đan xen đó thể hiện ở chỗ vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang nhân dân gồm nhiều thế hệ (từ giáo mác, cung tên, mìn bẫy, đến đại bác, xe tăng, tên lửa, máy bay, tàu chiến…); nhiều trình độ, trong đó có cả trình độ công nghệ cao (tên lửa phòng không điều khiển bằng ra đa, tên lửa điều khiển bằng hồng ngoại, lắp trên máy bay, tên lửa chống tăng có điều khiển, ngư lôi tự dẫn…), có thể điều khiển bằng tay, bằng mắt, theo nguyên lí cơ khí, thủy lực, điện tử, hồng ngoại, v.v…

Tính đan xen công nghệ đã tạo ra hệ thống hỏa lực sát thương đan xen (đan xen về tầm cao trong chiến đấu phòng không, đan xen về tình huống chiến thuật, đan xen về cách bố trí và tổ chức lực lượng). Nhờ khai thác và tận dụng tính đan xen đó, chúng ta đã tạo ra một hệ thống hỏa lực phù hợp với thế trận chiến tranh nhân dân, tạo ra một loại hình chiến tranh du kích mới, độc đáo, rất Việt Nam, không chỉ trên đồng lầy Nam Bộ, mà còn là cả chiến tranh du kích trên không, trên biển, đưa nghệ thuật chiến tranh du kích Việt Nam phát triển đến đỉnh cao mới.

Thứ hai là sự làm chủ vũ khí trang bị - kỹ thuật hiện đại vượt xa khả năng chế tạo trong nước. Công nghệ sử dụng vũ khí của các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã đạt tới trình độ vượt bậc trong chiến tranh nhân dân thời đại mới.

Rõ ràng, việc Mỹ sử dụng trên chiến trường Việt Nam các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, với số lượng rất lớn và mức độ tập trung cao đã tạo cho họ có sức mạnh hơn về hỏa lực không quân và pháo binh; sức cơ động cao bằng đường không, đường bộ và đường thủy, khả năng vận chuyển lớn trong bảo đảm vật chất - kỹ thuật … Những mặt mạnh đó đã tạo ra tính chất ác liệt của chiến tranh, tình huống chiến đấu, phát triển khẩn trương, sự chuyển hóa mau lẹ trong so sánh lực lượng, trong chiến dịch và trong chiến đấu. Với ưu thế về trang bị, vũ khí như vậy, nếu đối phương được tự do hành động theo cách đánh sở trường của họ thì chắc chắn, vũ khí trang bị hiện đại sẽ được phát huy tác dụng lớn và có thể tạo ra hiệu quả cao. Nhưng tiếc rằng điều ấy đã không đến với quân viễn chinh Mỹ. Đó là một rủi ro lớn, vì một phương châm của nghệ thuật quân sự Việt Nam là không cho địch đánh theo cách của địch mà buộc phải đánh theo cách của ta.

Trên cơ sở làm chủ, khai thác tốt các vũ khí trang bị hiện đại có trong tay, nắm vững các chỗ mạnh và điểm yếu trong vũ khí trang bị của địch, chúng ta đã vận dụng kết hợp tất cả các loại vũ khí và trang bị, từ thô sơ đến hiện đại, khéo dùng đúng lúc, đúng chỗ, tập trung đúng mức các phương tiện chiến đấu trong các tình huống chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, với phương châm dùng vũ khí hiện đại làm nòng cốt để phát huy tác dụng của các loại vũ khí khác. Khéo sử dụng, sử dụng một cách linh hoạt các phương tiện vật chất đã trở thành một đặc trưng văn hóa độc đáo của người Việt Nam.

Khéo sử dụng mọi khả năng tiềm tàng để đánh địch, chúng ta không chỉ hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu điểm yếu của địch, mà còn biết khai thác ngay những yếu tố công nghệ mạnh nhất của địch để đánh lại chúng. Trường hợp đánh máy bay B52 là một minh chứng sinh động. Gây nhiễu là một thủ đoạn của địch, nhưng bộ đội phòng không - không quân của ta đã biết dùng ngay nhiễu đặc trưng của máy bay B52 để bám sát và bắn rơi chúng, từ đó, sáng tạo ra một cách đánh độc đáo, rất Việt Nam, trong cuộc đấu trí và đấu lực quyết liệt với tiềm lực không quân mạnh và hiện đại nhất của Mỹ. Đó là cách đánh trong môi trường bị gây nhiễu…

Tính linh hoạt thể hiện rất rõ trong lịch sử giữ nước hàng nghìn năm của tổ tiên ta. Ở đây chỉ minh chứng thêm từ đầu thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã có những bước phát triển mới về tính linh hoạt, năng động.

Chẳng hạn trong kế hoạch Đông - Xuân 1953-1954, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, của ta và của địch đều chưa bàn gì về Điện Biên Phủ nhưng khi quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, quân ta đã tương kế, tựu kế, lấy ngay chiến trường này tiến hành trận đọ sức quyết chiến chiến lược để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh.

Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, quân ta đã giáng vào quân đội ngụy quyền Sài Gòn hai đòn tiến công mãnh liệt. Thứ nhất, lấy Buôn Ma Thuột làm điểm đột phá cho chiến dịch Tây Nguyên, điểm yếu nhất trong kế hoạch phòng thủ “nặng hai đầu” của địch. Đòn đột phá ấy tuy không nhằm vào quân chủ lực đối phương nhưng lại đánh trúng điểm chiến lược hiểm yếu nhất mà họ không có quyền để mất. Việc chiếm được Buôn Ma Thuột cho phép quân ta lựa chọn bất cứ một nơi nào làm mục tiêu tiến công tiếp theo, trong khi quân ngụy phải vắt óc, phán đoán để rồi tiếp tục phạm sai lầm. Thứ hai, mở mặt trận kế tiếp, theo trục Huế - Đà Nẵng, một thay đổi cực kỳ quan trọng. Theo một số ý tưởng ban đầu, sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, quân ta sẽ khẩn trương tiến dọc Tây Nguyên, tận dụng khí thế để tiến công vào Sài Gòn rồi sau đó mới quay về “giải quyết” các tỉnh đồng bằng duyên hải miền Trung. Nhưng quyết định mở mặt trận thứ hai theo trục Huế - Đà Nẵng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một thay đổi cực kỳ quan trọng.

DƯƠNG XUÂN ĐỐNG, Nhà nghiên cứu văn hóa quân sự 

Bài 1: Tính tổng hợp

Bài 3: Chống chiến tranh công nghệ cao