QĐND - Trong cuộc gặp gỡ lần thứ hai, ngày 23-6-1997 (sau cuộc gặp gỡ lần thứ nhất, ngày 9-11-1995), giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp với ông Mắc Na-ma-ra, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, Đại tướng đã hỏi ông Mắc Na-ma-ra: “Ông có biết vì sao nước Mỹ lại thua Việt Nam không?”. Mắc Na-ma-ra không trả lời được. Đại tướng đã nói với ông ta, đại ý: Người Mỹ xâm lược Việt Nam là một sai lầm. Các ông thua là do không hiểu được Việt Nam, không hiểu gì về văn hóa của người Việt.

Từ khía cạnh văn hóa, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm-Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng (Đại học Quốc gia TP  Hồ Chí Minh)-cho rằng, dẫn đến sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam có rất nhiều nguyên nhân, “nhưng nhìn một cách khái quát, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định Mỹ thua ở Việt Nam là thua về văn hóa thì điều đó vô cùng chính xác”.

Mắc Na-ma-ra vốn là một nhà kỹ trị (trước khi nhậm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, đã từng là Chủ tịch Tập đoàn Ford Motor Co). Trong tập hồi ký Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học từ Việt Nam (In retrospect the tragedy and lesson of Vietnam, Nhà xuất bản Random House, năm 1995), ông ta đã thừa nhận: “Chúng ta (người Mỹ)... đã hành động theo nguyên tắc và truyền thống của nước Mỹ. Nhưng chúng ta đã sai lầm. Chúng ta sai lầm tệ hại”. Một trong những sai lầm đó là việc Mỹ đã “đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc”, điều đó “phản ánh sự thiếu hiểu biết cơ bản của chúng ta về lịch sử, văn hóa, chính trị” (của Việt Nam), Mắc Na-ma-ra thừa nhận.

Theo Giáo sư Trần Ngọc Thêm, để đối phó với sức mạnh kỹ thuật của Mỹ trong chiến tranh, ngoài các yếu tố như chính nghĩa, tinh thần dân tộc... có hai đặc trưng quan trọng (trong 5 đặc trưng: Tính cộng đồng, tính ưa hài hòa, thiên về âm tính, tính tổng hợp và tính linh hoạt của nền văn hóa Việt Nam) đã được khai thác tối đa là tính tổng hợp và tính linh hoạt. Nhưng không riêng gì với Mỹ mà từ hơn một ngàn năm trước, hầu như tất cả các đạo quân xâm lược của bọn phong kiến phương Bắc cũng đều bị thất bại trước hai đặc trưng này.

Cô gái tưới hoa bên xác chiếc máy bay B-52 của Mỹ bị bắn rơi tại hồ Hữu Tiệp (Ngọc Hà, Hà Nội), năm 1972. Ảnh tư liệu.

Tính tổng hợp trong văn hóa Việt Nam xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, là một nghề phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Chính vì phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên mà người Việt đã luôn luôn phải cố gắng tổng hợp và bao quát (như người Việt vẫn thường nói: “Trông trời, trông đất, trông mây - Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm...”). Đây là một đặc trưng rất “âm tính”, giống như người phụ nữ, cùng một lúc có thể bao quát, làm được nhiều việc, những việc không tên... khác văn hóa phương Tây là “dương tính”, thiên về tư duy phân tích, giống như người đàn ông, cùng một lúc chỉ tập trung làm được một việc mà thôi.

Với cách tư duy phân tích, người phương Tây quen với lối ai làm việc của người ấy. Chiến tranh là việc của quân đội, còn nhân dân lánh hẳn ra một bên. Nhưng riêng ở Việt Nam, lúc có chiến tranh, ai cũng tham gia chiến đấu để chống giặc ngoại xâm, chứ không chỉ có riêng quân đội. Chính từ tính tổng hợp của văn hóa đã làm nên cái gọi là “chiến tranh nhân dân” mà người Mỹ dù có được nghe thấy cũng khó có thể hiểu hết bản chất của nó.

Nhờ có tính tổng hợp, mỗi người dân đều là một chiến sĩ, nên dù người Việt Nam tuy không đông nhưng vẫn có sức mạnh tăng lên gấp bội vì đã tổng hợp được các yếu tố riêng lẻ để tạo nên một chỉnh thể hoàn mỹ.

Đặc trưng văn hóa thứ hai giúp người Việt Nam chiến thắng bất kỳ kẻ thù xâm lược nào là tính linh hoạt. Nghề nông nghiệp trồng lúa nước luôn luôn phải đối phó với thiên nhiên, mà thiên nhiên lại luôn luôn chứa đầy những yếu tố bất ngờ, không thể dự tính trước được, cho nên người Việt Nam phải rất linh hoạt. Tùy lúc, tùy nơi, tùy người mà có những ứng xử khác nhau, chứ không cứng nhắc theo một cách bất biến nào.

Trong khi đó, văn hóa phương Tây lại có truyền thống phải tính toán, sắp xếp trước mọi việc một cách nền nếp, có nguyên tắc, chứ không thể tùy tiện được. Rõ ràng, một bên là cái linh hoạt, đối đầu với một bên là cái nguyên tắc cứng đờ thì cái linh hoạt sẽ luôn luôn chiến thắng. Trong chiến tranh hơn thua nhau là ở sự bất ngờ, mà tính linh hoạt luôn luôn tạo nên sự bất ngờ. Thường thường thì đó chính là kiểu chiến tranh du kích thiên biến vạn hóa, không tuân theo một quy ước nào như chiến tranh chính quy, khiến đối phương không thể nào đối phó được.

Tính tổng hợp và tính linh hoạt chính là hai yếu tố văn hóa, tự mang sẵn trong mình phép biện chứng, nghĩa là luôn luôn hợp với quy luật vận động và phát triển khách quan của sự vật, và đã hình thành nên “chiến tranh nhân dân”, với phương pháp chiến đấu độc đáo, nổi tiếng là “chiến tranh du kích”, đã giúp dân tộc ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Bây giờ, từ góc độ văn hóa quân sự-một chi lưu của dòng sông văn hóa dân tộc - chúng ta tìm hiểu về sự thể hiện nội dung của hai đặc trưng đó.

Trước hết là tính tổng hợp. Nói đến tính tổng hợp trong văn hóa quân sự Việt Nam, điều đầu tiên cần bàn đến là chiến tranh nhân dân. Chiến tranh nhân dân Việt Nam ra đời rất sớm, từ thế kỷ III TCN và hình thành trên hai cơ sở: Một là tính chất chính nghĩa của chiến tranh chống ngoại xâm, thể hiện rõ khát vọng, ý chí của nhân dân, do đó mà nhân dân hăng hái tham gia; hai là dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước thương nòi, có tinh thần đoàn kết khi bờ cõi đất nước bị xâm phạm.

Vả lại, để chống lại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của những kẻ thù lớn mạnh, với điều kiện phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, lấy nhỏ thắng lớn, muốn giành được thắng lợi, bảo vệ vững chắc được độc lập tự do, riêng mình quân đội không đủ khả năng hoàn thành được nhiệm vụ mà nhất thiết phải một lúc, cả quân đội và nhân dân cùng tham gia chiến đấu. Đó là nội dung mang tính tổng hợp lớn nhất, quy tụ được sức mạnh của hai lực lượng là quân đội và toàn dân.

Theo chiều hướng phát triển của lịch sử, chiến tranh nhân dân mang tính chất tổng hợp ngày càng cao. Nội dung chiến tranh nhân dân Việt Nam ngày nay đã mang đủ 4 yếu tố: Toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Nhưng lúc đầu, khi mới hình thành, chiến tranh nhân dân Việt Nam chỉ có tính toàn dân và tính lâu dài. Tính toàn dân thể hiện rõ tính tổng hợp sức mạnh của mọi người, của toàn dân tộc. Nhưng tập họp được toàn dân vào cuộc chiến tranh như thế, không phải dân tộc ta đã có ngay sức mạnh, mà phải đi dần từng bước để chuyển hóa tình hình, làm cho ta mạnh lên, địch yếu đi bằng cách từ tiêu hao đến tiêu diệt địch để tương quan lực lượng nghiêng về phía ta thì mới đánh thắng được quân thù. Và như thế, cần phải có thời gian lâu dài để “xoay xở”. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, phục vụ cho việc đánh giặc ngoại xâm lúc đầu chỉ là kinh tế nông nghiệp nhưng rồi nền kinh tế đất nước phát triển, bên cạnh nông nghiệp là chủ yếu còn có thủ công nghiệp, thương nghiệp... cùng với việc sản xuất ra các sản phẩm vật chất còn có việc sản xuất ra các sản phẩm tinh thần. Cho nên đánh giặc bằng quân sự, kinh tế chưa đủ mạnh mà còn phải đánh giặc bằng đường lối chỉ đạo của chính trị, bằng sức mạnh của văn hóa-xã hội. Từ đó, tính toàn diện của chiến tranh nhân dân xuất hiện. Trước thế kỷ XX, để đánh giặc ngoại xâm, dân tộc ta hoàn toàn dựa vào sức mình. Nhưng trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), tình hình trong nước và thế giới đã có nhiều biến đổi lớn. Để lãnh đạo nhân dân, bên cạnh sức mạnh dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã biết kết hợp với sức mạnh thời đại.

Trong chiến tranh chống xâm lược, đối với một quốc gia đất không rộng, người không đông như Việt Nam thì việc tổ chức lực lượng vũ trang mang tính tổng hợp rất cao. Đó là tính tổng hợp của lực lượng chính trị và lực lượng quân sự. Để có một lực lượng vũ trang chất lượng cao, bao giờ sự tuyển lựa cũng bắt đầu từ lực lượng chính trị, tức là tuyển lựa người chiến sĩ ở tầng lớp công dân có giác ngộ chính trị cao, có lòng yêu nước nồng nàn. Và trong quá trình đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm của dân tộc ta ngày nay cũng thường xuyên có sự tiến công về quân sự kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng. Không những thế, từ xa xưa cho đến hiện nay, tổ chức vũ trang của dân tộc ta bao giờ cũng song song tồn tại hai thành phần: thành phần quân đội thường trực làm nòng cốt và thành phần rộng rãi của quần chúng vũ trang. Thành phần quân đội thường trực bao gồm lực lượng vũ trang chủ lực, cơ động trên phạm vi cả nước, và lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt cho lực lượng nửa vũ trang của quần chúng, chiến đấu ở cơ sở xóm làng - ngày xưa là dân binh, ngày nay là dân quân tự vệ. Nói gọn lại, tổ chức lực lượng vũ trang của dân tộc ta, hàng ngàn năm nay, bao giờ cũng bao gồm ba thứ quân.

Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Trong quá trình đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm trước đây, việc sử dụng vũ khí chủ yếu là gươm giáo, nỏ, cung tên. Bên cạnh vũ khí lạnh, mấy thế kỷ gần đây, các lực lượng vũ trang ta đã sử dụng vũ khí nóng là súng đạn. Nhưng để có một sức mạnh tổng hợp, các lực lượng vũ trang quần chúng còn thường xuyên sử dụng thêm các loại vũ khí tự tạo như: Hầm chông, cạm bẫy, súng ngựa trời... Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, tính tổng hợp sức mạnh các loại hỏa lực của lực lượng vũ trang ta cũng rất phong phú. Để chống lại máy bay tầm thấp, có lực lượng rộng rãi của hàng ngàn, hàng vạn khẩu súng trường của dân quân, tự vệ.  Lưới lửa bắn máy bay tầm trung có súng máy phòng không, pháo cao xạ. Chống lại các loại máy bay tầm cao như F4, B52, Quân chủng Phòng không-Không quân của ta đã sử dụng tên lửa, máy bay tiêm kích.

Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thế kỷ XX, tính tổng hợp được phát triển lên một tầm cao mới, với nghệ thuật tiến công bằng “hai chân” (quân sự, chính trị), bằng “ba mũi” (ba mũi giáp công: Quân sự, chính trị, binh vận), bằng “ba mặt” (ba mặt trận: Quân sự, chính trị, ngoại giao), trên “ba vùng” (ba vùng chiến lược: Nông thôn rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị). Nghệ thuật quân sự của ta còn là sự tổng hợp của 4 yếu tố: Tạo lực, lập thế, tranh thời, dụng mưu.

DƯƠNG XUÂN ĐỐNG, Nhà nghiên cứu văn hóa quân sự

Bài 2: Tính linh hoạt