QĐND - Ấn tượng của tôi về Đại úy công an, y sĩ Nguyễn Quang Ánh, 1 trong 10 thầy thuốc trẻ Việt Nam tiêu biểu năm 2013 vừa được Bộ Y tế, Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam tuyên dương không nhiều. Ở anh có vẻ gì đó hiền lành, thậm chí hơi rụt rè. Phải đến khi tiếp xúc với anh, tôi mới biết anh nghị lực đến như thế nào để đứng vững đến ngày hôm nay sau khi trải qua những biến động dữ dội của cuộc đời.
“Sinh nghề tử nghiệp”
Đen sạm, gầy gò, nhỏ nhẹ, hiền lành, y sĩ Nguyễn Quang Ánh, cán bộ y tế ở trại giam Thủ Đức (huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận), khiến người đối diện không nghĩ anh làm nghề y. Một con người hiền lành như thế mà cuộc đời lại quá nhiều trắc trở: năm 2004, ngay sau khi biết tin anh và mình cùng bị phơi nhiễm HIV, vợ y sĩ Ánh đã chọn cái chết, để lại con gái mới 26 ngày tuổi.
 |
Y sĩ Nguyễn Quang Ánh.
|
Trại giam Thủ Đức, Tổng cục VIII, Bộ Công an, nơi Đại úy, y sĩ Nguyễn Quang Ánh đang công tác, thường xuyên giam giữ từ 8000 - 10.000 phạm nhân với nhiều mức án và tội trạng khác nhau. Trong số đó, có tới 10% phạm nhân nhiễm HIV/AIDS, 2% nhiễm lao và hầu hết đều mắc các bệnh xã hội như viêm gan, giang mai, lậu… Vậy nên, công việc khám, chữa bệnh của anh Ánh và hơn 20 đồng đội tại trạm xá trong trại giam này rất khác biệt so với những cán bộ y tế khác. Theo y sĩ Ánh, ở một nơi như trại giam Thủ Đức, lúc nào nhân viên y tế cũng ở trạng thái trực 24/24 giờ, sẵn sàng điều trị cho những bệnh nhân nhiễm HIV chán đời, lười lao động nên tự tạo ra những vết thương và không cho bác sĩ khám, chữa bệnh, hoặc tìm cách tự sát… "Nhiều khi thấy nạn nhân bị đứt động mạch, chúng tôi phải vội vàng cứu chữa ngay, nên chẳng còn thời gian nào để đi găng tay cho dù biết đó là bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS"-Nguyễn Quang Ánh bộc bạch.
Một ngày làm việc của y sĩ Nguyễn Quang Ánh thường bắt đầu từ rất sớm. Do công tác trong trạm xá thuộc Trại giam Thủ Đức, nên y sĩ Ánh chẳng mấy lúc được rảnh rỗi. Hàng nghìn phạm nhân đang thụ án tại trại giam Thủ Đức là hàng nghìn người bệnh tiềm ẩn với đủ loại bệnh lý khác nhau, từ ốm đau vặt, nhức đầu sổ mũi đến thương hàn, sốt rét và cả điều trị HIV, lao kháng thuốc… Rồi còn chuyện phạm nhân nhiễm các căn bệnh xã hội viện cớ ốm đau, dọa nạt cán bộ, cắt ven lấy máu để tạo áp lực là chuyện Ánh và đồng nghiệp phải đối mặt thường xuyên. “Năm 2001, trong một lần xử lý chấn thương cho phạm nhân nhiễm HIV/AIDS Bùi Văn Phú, tôi đã bị anh ta hắt cả chậu nước lẫn máu vào mặt và người. Trước đó, do chán nản vì toàn thân lở loét, bệnh AIDS đã chuyển sang giai đoạn cuối nên Phú đã dùng mảnh chai để tự hủy hoại thân thể và rạch động mạch tay, bụng, đùi; sau đó, dùng ca hứng máu, để hăm dọa cán bộ và một số phạm nhân khác…”, anh Ánh kể lại.
Mãi tới năm 2004, khi đưa vợ đi sinh ở Bệnh viện 30-4, Bộ Công an, anh Ánh mới biết được tin dữ: Cả hai vợ chồng anh đều bị lây nhiễm HIV. Cú sốc quá lớn khiến chị rơi vào trầm cảm. Là một cô giáo, hằng ngày đứng giảng bài cho hàng trăm học sinh, chị không chịu được ý nghĩ phải đối mặt với những ánh mắt dò xét, nghi ngờ, chị suy sụp hoàn toàn và tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Đau đớn, thương vợ, đã có lúc anh cũng định buông xuôi tất cả. Nhưng lúc đó, nhìn bé con chưa được tròn tháng đã mồ côi mẹ, nếu mất nốt cha thì bé sẽ bất hạnh gấp ngàn lần. Thương con, anh đã vịn vào tình yêu thương của người cha đối với con để sống, làm việc, cống hiến để hoàn thành trách nhiệm của một người cha và hoàn thiện trách nhiệm với công việc cứu người mà anh đã lựa chọn. Anh tâm sự, chưa một lần anh cảm thấy ân hận khi đã chọn nghề. Anh tâm niệm sống vì nghề và mai này chết cũng vì nghề. Đối diện với sự sống của mình như đồng hồ quay ngược, chẳng biết còn bao nhiêu ngày vậy mà anh Ánh vẫn không tuyệt vọng, vẫn tận tâm, tận lực cống hiến vì người bệnh. Dẫu rằng, chính ai đó trong số phạm nhân kia đã đẩy anh cùng gia đình vào tai họa. Anh giành giật sự sống hằng ngày cho họ vì tâm niệm “cứu một người phúc đẳng hà sa”. Anh Ánh tâm sự với chúng tôi rằng, cô con gái bé bỏng vừa chào đời đã mất mẹ, lại không có cha gần gũi, bù đắp tình cảm mới chính là nỗi day dứt lớn nhất của anh để lại giữa cuộc đời này. Nhớ con, anh chỉ còn biết lao vào công việc.
Ánh mắt anh như có nước khi anh kể cho chúng tôi nghe về cảm giác của anh mỗi lần về quê thăm con gái. Anh sợ những lần trở về ấy sẽ là lần cuối, sợ cả tiếng khóc của con mỗi lần anh xách va-li trở về đơn vị. Anh chỉ mong sao con lớn thật nhanh, để có thể chia sẻ cùng con bao điều không dễ nói của một nghề nguy hiểm. Mỗi đêm, sau bài tập thể lực để chạy đua cùng thời gian, anh thường ngồi viết nhật ký gửi đến mai sau, những mong con gái sẽ hiểu cho sự ra đi của bố mẹ, mong con giữ được lòng tự hào vì sự cống hiến của cha nó cho cuộc sống này, để nuôi dưỡng trong con lòng yêu thương con người, sẵn sàng chấp nhận mọi biến cố cuộc đời...
Bản lĩnh vững vàng
“Lãnh đạo nơi đơn vị tôi công tác, rồi Bộ Công an, cũng có ý tạo điều kiện cho tôi chuyển công tác về Hà Nội để gần con, gần gia đình. Tôi cũng có bằng cử nhân luật nên nhiều đơn vị bên ngoài cũng đề nghị tôi về công tác với mức lương cao… Nhưng dường như là cái nghiệp nên tôi quyết định vẫn gắn bó với trại giam Thủ Đức”, thầy thuốc trẻ Nguyễn Quang Ánh chia sẻ.
Anh nói, anh thương bố mẹ anh lắm. Bố anh là một đại tá quân đội nghỉ hưu đến bây giờ vẫn còn hẫng hụt, đau xót vì biết con trai mình bị nhiễm HIV, một cái chết được báo trước. Bao nhiêu tình cảm ông dồn hết cho đứa cháu nội thiệt thòi. Bản lĩnh của một người lính đã giúp ông đứng vững, trở thành chỗ dựa vững chắc cho người con của mình. Lúc nào cũng vậy, ở cái vùng quê Chương Mỹ nhỏ bé, nơi anh cất tiếng khóc chào đời và trưởng thành, anh luôn là niềm tự hào của bố mẹ và dòng họ. Bởi vậy, cho đến nay, anh Ánh vẫn tiếp tục hỗ trợ đồng đội khám, chữa bệnh, giáo dục phạm nhân, tham gia công tác quản lý, bảo vệ trại giam. Với anh, mỗi lần điều trị thành công cho một người bệnh, mỗi lần cảm hóa được một phạm nhân, giúp họ vững tin hơn vào cuộc sống mai này sau khi mãn hạn thụ án… là mỗi lần anh có thêm niềm vui và thấy cuộc sống thật ý nghĩa.
Trong câu chuyện với thầy thuốc trẻ Nguyễn Quang Ánh, có thể thấy rõ bên cạnh niềm vui trong công việc, anh còn có một niềm vui khác, đặc biệt hơn, đó là cô con gái nhỏ đang học lớp 4, đang sống cùng ông bà nội ở Chương Mỹ, Hà Nội. Đại úy Ánh tâm sự rằng, rất thương và nhớ con gái nên cũng có lúc muốn đưa cháu vào trại Thủ Đức để hai bố con sống bên nhau. Tuy nhiên, vì nghĩ đến tương lai của con, muốn cháu được lớn lên như bao trẻ nhỏ khác nên anh quyết định vẫn để con sống cùng ông bà nội. “Tôi xác định sẽ có một ngày mình phải ra đi, nên nghĩ rằng con ở với ông bà thì tốt hơn. Con tôi quen dần với việc tôi xa nhà, xa con, đến lúc tôi mất, con tôi cũng đỡ hẫng hụt. Mỗi ngày, bố con tôi vẫn thường gọi điện, liên lạc với nhau. Con gái giờ cũng đã học lớp 4 nên đã biết tự chụp hình và lên mạng để gửi thư, gửi ảnh cho bố”, anh Ánh cho biết. Nghe lời tâm sự đó của anh mà tôi thực sự cảm phục ý chí, nghị lực của người đàn ông nhỏ nhắn trước mặt mình. Chẳng ai muốn xa con nhưng vì hoàn cảnh, anh nén nỗi nhớ, nén sự thương con để con có được một cuộc sống bình an, không muộn phiền.
Tạm biệt chúng tôi để về quê thăm con gái và gia đình, anh Ánh chỉ kịp chia sẻ thêm: “Nếu được chọn lại thì tôi vẫn chọn được làm cán bộ y tế trong trại giam. Đó là công việc, là sự sống của tôi”. Câu trả lời đầy cương quyết, tự tin của anh Ánh khiến những ai đối diện đều cảm phục nghị lực sống ở người thầy thuốc dù mang bệnh hiểm nghèo vẫn đầy tâm huyết, sẵn sàng dành sức lực còn lại của cuộc đời để chăm sóc cho người bệnh. Chúng tôi đều mong anh có thật nhiều sức khỏe để tiếp tục sống, tiếp tục công việc khám, chữa bệnh mà anh đã coi như cái nghiệp và đặc biệt để tiếp tục chứng kiến sự trưởng thành của cô con gái nhỏ mà anh rất đỗi thương yêu.
Bài và ảnh: CÙ HƯƠNG