QĐND - Vậy là đã gần 10 năm, Thiếu tá QNCN Phạm Văn Tôn được cấp trên phân công về đảm nhiệm chức Phó bí thư Đảng ủy xã Trung Lý (Mường Lát, Thanh Hóa). Cũng như nhiều đồng đội khác, anh được Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP) giao nhiệm vụ tăng cường làm cán bộ xã ở nơi địa bàn đặc biệt khó khăn. Nhớ lại ngày đầu vai đeo ba lô về Trung Lý, Phạm Văn Tôn không khỏi băn khoăn, lo lắng xen lẫn chút cảm giác gợn buồn bởi phải xa đồng đội, xa môi trường công tác ở đồn biên phòng vốn đã thân quen để về một môi trường hoàn toàn khác lạ.

Thiếu tá QNCN Phạm Văn Tôn tại buổi giao lưu "Những người thắp lửa biên cương" do Báo Biên phòng và ANTV tổ chức tối 31-1-2015 tại Cung Văn hóa hữu nghị Việt-Xô.

Ngày Phạm Văn Tôn về xã Trung Lý, cả đảng bộ chỉ có 76 đảng viên, duy nhất có một đảng viên người dân tộc Mông, 75 đảng viên còn lại là người dân tộc Thái; 12/16 bản trắng đảng viên. Xã Trung Lý có gần 1.200 hộ; 12/16 bản là người Thái sinh sống, còn lại là người Mông. Tuy đã gần 10 năm gắn bó với đồng bào Trung Lý, nhưng cho tới tận bây giờ Phạm Văn Tôn vẫn chưa hình dung hết được những khó khăn, gian khó mà mình đã vượt qua, bởi có những lúc tưởng chừng như không thể vượt nổi. Địa bàn rộng, dân cư thưa thớt, giao thông đi lại khó khăn vì cơ sở vật chất và hạ tầng thấp kém, số hộ nghèo chiếm tới 98%. Các hoạt động của tội phạm, ma túy, truyền đạo trái phép chưa được ngăn chặn; tình trạng di cư tự do không được kiểm soát… Nhưng khó khăn lớn nhất là đối với Phạm Văn Tôn là ngôn ngữ bất đồng. Đã vậy, trình độ dân trí thấp; nội bộ cấp ủy, chính quyền địa phương cũng có nhiều vấn đề phức tạp và tế nhị. Nhiều người hoài nghi cho rằng: Bộ đội chỉ giỏi đánh giặc chứ không làm được cán bộ xã, nên họ nghi kỵ, không ủng hộ... Biết bao đêm Phạm Văn Tôn trằn trọc ngủ không trọn giấc. Anh suy nghĩ không biết phải bắt đầu từ đâu, làm việc gì trước, việc gì sau. Ở đơn vị, khi có nghị quyết chi bộ, có kế hoạch công tác là anh em bảo nhau làm, việc gì khó khăn thì cùng nhau bàn bạc tìm cách tháo gỡ, hoặc đề đạt với cấp trên, còn anh lúc này, mọi vấn đề đều phải "tác chiến" một mình. Nhiều vấn đề anh thấy cần báo cáo xin ý kiến lãnh đạo địa phương cấp trên, tuy nhiên sự quan tâm, tạo điều kiện ngược lại chưa thuận lợi. Cái khó nữa với anh là cả Bí thư và Chủ tịch UBND xã đều là người địa phương nên muốn làm gì anh đều phải được sự đồng ý từ phía họ.

Việc đầu tiên Phạm Văn Tôn làm là tìm hiểu phong tục tập quán và tình hình kinh tế-xã hội của địa phương; tình hình nội bộ cấp ủy, chính quyền và học tiếng đồng bào. Anh đến nhà riêng của Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch UBND xã thăm hỏi, từ chỗ quen biết trên công việc, cả hai đều coi anh như người thân trong nhà. Bởi họ nhận thấy ở anh có sự tôn trọng, cùng với đó là sự tận tâm, tận lực; vô tư khách quan trong công việc. Trước tình hình của đảng bộ, anh tham mưu đề xuất việc củng cố sự lãnh đạo của Đảng bằng cách từng bước nâng cao nhận thức trách nhiệm của mỗi đảng viên trước sự phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, đi đôi với phát triển Đảng. Để trả lời câu hỏi vì sao phát triển Đảng cho người Mông lại khó khăn trong khi nhiều người rất tốt và mong muốn được vào Đảng? Vì sao ở Trung Lý người Thái vào Đảng được còn người Mông lại chưa được? Anh chủ động gặp gỡ, tìm hiểu nhiều người và nhận thấy: Nếu đối chiếu với Điều lệ Đảng thì có những tiêu chí chưa phù hợp, nhưng nếu không linh hoạt với điều kiện cụ thể của địa phương và người dân tộc thiểu số thì không thể phát triển Đảng được cho người Mông. Phần lớn đồng bào Mông dân trí thấp, hay vi phạm kế hoạch hóa gia đình. Mặt khác, người Mông thường có thói quen di cư, nên địa phương không có kinh phí đi thẩm tra xác minh lý lịch. Từ thực tế đó, anh báo cáo với huyện ủy, tỉnh ủy không giảm tiêu chí đảng viên nhưng có vận dụng phù hợp với tình hình cụ thể của đồng bào, nhất là đồng bào Mông… Nhờ vậy, đến nay xã Trung Lý đã có 248 đảng viên, 100% bản có chi bộ. Kết quả đó nhờ sự nỗ lực rất lớn của cấp ủy, chính quyền địa phương mà Phạm Văn Tôn có đóng góp không nhỏ. Từ đây, các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và Chính phủ đã đến được tận người dân các bản ở xã Trung Lý. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, các tổ chức chính trị-xã hội như đoàn thanh niên, phụ nữ, người cao tuổi ở các bản cũng lần lượt ra đời và hoạt động rất hiệu quả.

Trong công tác phát triển Đảng ở địa phương, bản thân anh đã trực tiếp đi 6 tỉnh phía Bắc xác minh 107 hồ sơ, trong đó đã kết nạp được 89 đảng viên. Một kỷ niệm mà anh nhớ nhất là phải đi đến 3 lần mới xác minh được lý lịch cho một đối tượng Đảng người Mông. Từ Mường Lát (Thanh Hóa) anh ngược lên Bảo Thắng (Lào Cai), tìm đến xã Phong Liên. Đến nơi, anh được địa phương cho biết không có trường hợp nào như thế ở bản. Không nản lòng, Phạm Văn Tôn tiếp tục tìm hiểu và được biết, Sùng A Giáo trước đây sinh sống tại Bản Đẹt, xã Phong Liên. Anh trở lại Phong Liên lần thứ hai những tưởng như xong việc. Tuy nhiên, khi đối chiếu với hồ sơ thì cấp ủy địa phương không chứng nhận, lý do tên trong hồ sơ là Sùng A Giáo, ở địa phương thì chỉ có Sùng Seo Giáo. Vậy là một lần nữa anh phải chứng minh Sùng A Giáo chính là Sùng Seo Giáo, người trước đây đã sống ở Bản Đẹt. Thế là sau 3 lần "hành quân" từ Thanh Hóa lên Lào Cai, Phạm Văn Tôn mới hoàn tất việc thẩm tra lý lịch cho Sùng A Giáo để kết nạp anh vào Đảng. Hỏi chuyện, Phạm Văn Tôn cho biết: "Sùng A Giáo là một quần chúng rất tốt, có động cơ và chí hướng phấn đấu, lại là người có uy tín trong đồng bào ở Trung Lý. Vì thế, nếu không kết nạp được Sùng A Giáo vào Đảng để bồi dưỡng nguồn cán bộ cho địa phương thì rất tiếc". 

Đi đôi với công tác phát triển Đảng, Phạm Văn Tôn tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng, bồi dưỡng nguồn cán bộ tại chỗ bằng cách lựa chọn những người có tín nhiệm, gửi đi học; giao nhiệm vụ từ thấp đến cao cho lớp trẻ để tạo nguồn. Anh còn đề nghị UBND huyện cho tuyển dụng công chức xã là người dân tộc. Một vấn đề nảy sinh trong nội bộ người dân và cán bộ địa phương: Người dân tộc Thái thường không đồng tình ủng hộ người Mông làm cán bộ. Thấy được vấn đề, anh vận động, thuyết phục trước hết từ đội ngũ cán bộ, đảng viên chủ chốt của xã, rồi tới các trưởng bản. Đêm đêm, Phạm Văn Tôn đến các bản người Thái giải thích cho đồng bào bằng lý lẽ và những con người cụ thể. Lúc thì ngồi quây quần bên bếp lửa, lúc thì cùng làm nương rẫy, sự kiên trì thuyết phục của anh không những làm bà con hai dân tộc đoàn kết, gần nhau hơn mà còn hết lòng ủng hộ anh trong công việc. Kết quả là xã Trung Lý lần đầu tiên đã có 3 cán bộ công chức người dân tộc Mông, đó là Chủ tịch Ủy ban MTTQ xã; Bí thư Đoàn thanh niên và Trưởng công an xã cùng một cán bộ khác là Phó chủ tịch HĐND xã. Nhờ vậy, việc tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và các nghị quyết, kế hoạch của địa phương đối với đồng bào người Mông được thuận lợi hơn, còn đồng bào thì phấn khởi, thêm tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước vì bây giờ đã có người Mông làm cán bộ.

Sau những việc đã làm cho địa phương, bà con ai cũng quý mến Phạm Văn Tôn. Bất cứ việc lớn nhỏ, bà con đều tìm đến "cán bộ Tôn" để hỏi, từ chuyện nuôi con gà, con lợn đến việc cưới hỏi, dựng nhà... Ông Lộc Văn Hiến, Chủ tịch UBND xã cho biết: "Bộ đội Tôn tốt lắm, có trách nhiệm với bà con đấy! Trung Lý đổi mới nhiều là nhờ có cán bộ Tôn giúp sức!". Bây giờ xã Trung Lý từ 98% hộ nghèo đã giảm xuống còn gần 50%; xã đã có trường tiểu học, THCS, trạm y tế. Gần 10 năm qua, với đồng bào thì Phạm Văn Tôn thực sự đã là người con của xã Trung Lý, còn anh coi nơi đây như quê hương thứ hai của mình vì đã gắn bó biết bao kỷ niệm. Hỏi "bí quyết" nào giúp anh vượt qua khó khăn, trở ngại để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Anh cười hiền khô, rồi bảo: "Muốn được dân tin yêu, địa phương ủng hộ thì mình phải tham mưu trúng, đúng với thực tiễn của địa phương; phải khách quan, công tâm; lời nói luôn phải đi đôi với việc làm...".

Chia tay Phạm Văn Tôn, tôi nhớ mãi gương mặt sạm nắng gió của người lính quân hàm xanh. Anh cũng như nhiều đồng đội khác đang ngày đêm "ba bám, bốn cùng" giúp đỡ đồng bào các dân tộc trên vùng biên giới xóa đói, giảm nghèo, đẩy lùi lạc hậu; xây dựng "phên giậu" của Tổ quốc ngày càng vững chắc. Các anh như những người "thắp lửa" để biên cương luôn tỏa sáng tình dân, nghĩa Đảng...

Bài và ảnh: LÊ QUÝ HOÀNG