QĐND - Chúng tôi muốn dùng hình ảnh ngựa sắt Thánh Gióng để nói về một giấc mơ ngàn đời của người Việt, giấc mơ có được vũ khí trang bị hiện đại để bảo vệ Tổ quốc do chính bàn tay người Việt làm nên. Và một trong những nơi đang thực hiện ước mơ đó là Viện Nghiên cứu Phát triển Viettel do Đại tá Nguyễn Đình Chiến làm Viện trưởng.
"Ra-đi-ô thật là đơn giản"
Cứ ngỡ vị đại tá, viện trưởng phải rất đạo mạo nên tôi rất ngạc nhiên thấy anh trẻ nhiều so với tuổi sinh năm 1969. Anh đến với nghiệp kỹ thuật bắt đầu từ... cái ra-đi-ô. Cha anh, ông Nguyễn Trọng Cư, vốn là một người thợ sửa ra-đi-ô ở Thái Lan, theo lời kêu gọi của Bác Hồ cùng kiều bào về nước, công tác ở Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tây cũ nhưng vẫn có phòng làm việc riêng để làm nghề đài đóm. Không thích các con sớm theo nghề mình, ông cấm đám trẻ con bén mảng căn phòng nhỏ. Thế nhưng, cậu bé Chiến đã lấy trộm được chìa khóa, đột nhập, lôi sách ra đọc rồi mày mò. Cậu khoái nhất là cuốn “Ra-đi-ô thật là đơn giản”, đọc thuộc cả cuốn sách với những kiến thức mà vào tới đại học năm thứ hai, cậu mới được học. Cậu còn thu gom phế liệu, dây đồng, nam châm, tụ điện, mày mò theo cuốn sách, lắp được một chiếc đài hoàn chỉnh.
 |
|
Đại tá Nguyễn Đình Chiến.
|
Chiến ham làm đồ chơi tự chế, từ súng gỗ tới xe tăng đất, rồi mô hình máy bay. Lớn lên, anh thi đỗ Học viện Kỹ thuật Quân sự, khoa Vô tuyến. Môn học cực khó là Lý thuyết mạch, hầu như học viên nào cũng sợ thì Chiến lại có thể trả lời rành mạch từ đầu đến cuối. Năm 1991, ra trường anh được điều về Viện Kỹ thuật Thông tin của Binh chủng Thông tin liên lạc công tác, rồi Trung tâm Tin học của Binh chủng. Năm 1992, anh được nhận học bổng dành cho kỹ sư ở Ấn Độ, sau đó trở lại Viện công tác. Anh đã có chuyến công tác dài ngày ở Trường Sa, đi sâu nghiên cứu thiết bị thông tin. Từ nghiên cứu viên, anh được bổ nhiệm Phụ trách Phòng Chuyển mạch truyền số liệu của Viện.
Vượt “vũ môn”
Vào năm 2000, Viettel bắt đầu mở màn kinh doanh dịch vụ điện thoại 178 và rất cần những chuyên gia công nghệ. Chiến được tăng cường sang giúp Viettel. Anh đã đóng góp hiệu quả cho việc thiết kế hạ tầng dịch vụ 178. Các lãnh đạo thấy anh có tố chất nên đề nghị anh về Viettel, được bổ nhiệm là Trưởng phòng Kỹ thuật vào năm 2001.
|
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân: "Những thiết bị quân sự do Viettel sản xuất đủ sức đảm bảo bí mật, an toàn, góp phần to lớn bảo vệ vùng trời Tổ quốc hiện nay".
|
Công việc mới của người thủ lĩnh kỹ thuật là phát triển mạng lưới của thị trường di động đã có tới ba người khổng lồ Vinaphone, Mobifone, Sphone. “Chúng tôi bắt đầu bằng cách làm người lính. Các hãng đều xây dựng mạng theo kiểu “chìa khóa trao tay” từ nước ngoài còn chúng tôi phải tự làm để không bị phụ thuộc. Cái gì chưa biết thì mình mời chuyên gia đào tạo nhưng cũng phải “từ chối” tới 8 chuyên gia nước ngoài vì không đạt yêu cầu. Quan điểm chuyển từ “tây làm ta xem” sang “ta làm tây xem” đã dần hình thành từ đó-Đại tá Chiến nhớ lại.
Ba hãng viễn thông đã có hàng nghìn trạm thu phát sóng (BTS) thì Viettel vẫn tay không. Đàm phán hợp tác với nước ngoài suốt một năm trời không xong vì đối tác góp ít lại đòi hưởng quá nhiều, tận 3 năm sau kinh doanh, Viettel mới được chia lãi. Viettel “xô bàn đứng dậy” ra về, ai cũng buồn, nhưng Ban lãnh đạo quả quyết: “Phải tự làm thôi”! Chưa ai dám tin sẽ làm được vì lúc đó tiền vốn và kiến thức của Viettel rất ít.
Viettel tự làm, chớp thời cơ khủng hoảng thừa thiết bị viễn thông 2G ở châu Âu, mua trả chậm được 5000 trạm BTS, đủ lắp “tràn ngập lãnh thổ”. Nhưng lắp như thế nào? Thuê nước ngoài, họ chào thầu cứ phát triển được 500.000 thuê bao phải chi hàng chục triệu USD, một số tiền mà Viettel khi đó nghe mặt đã… tái xanh. “Chúng tôi đành tự làm, mời chuyên gia tư vấn, tự đấu thầu mua thiết bị, chỉ nhờ họ lắp mẫu” - Anh Chiến cho hay, anh và cộng sự cũng đi “tầm sư học… mạng” khắp Thái Lan, Xin-ga-po, châu Âu. Những ngày đầu chập chững, 6 tháng mới được 150 trạm BTS, để đuổi kịp Mobifone, Vinaphone phải mất nửa thế kỷ. Thật đau đầu! “Chúng tôi mò mẫm rồi cũng phát hiện ra họ thiết kế mạng theo mật độ dân cư, mật độ xây dựng, lắp một trạm cả nghìn trang hồ sơ thủ tục, tính trang, tính trạm để lấy tiền công! Lãnh đạo Viettel đã quyết định làm nhanh, chuyển từ “du kích” sang “công nghiệp”, một lúc lắp cả trăm trạm bằng giải pháp “chia mắt lưới”, phủ sóng trước rồi “hiệu chỉnh” sau. Nhờ thế, lắp xong khắp Hà Nội chỉ trong 6 tháng, trong khi nếu theo cách của nước ngoài phải mất 10 năm. Chiến dịch một năm cả nước lắp 5000 trạm thành công, ghi kỷ lục chưa từng có trong ngành viễn thông thế giới”-anh Chiến kể.
Ước mơ “ngựa sắt”
Viettel đã lên ngôi vị số 1 của viễn thông Việt Nam và hướng đi tiếp theo là đầu tư ra quốc tế. Phòng Kỹ thuật Viettel không còn những công việc con mọn như trước kia. Như người ta có thể “rửa tay gác kiếm” nhưng một ngày năm 2007, Chiến mạnh dạn đề xuất cấp trên, lập một công ty, mở hướng đi mới.
|
Thượng tướng Lê Hữu Đức, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng: Viettel đã nghiên cứu và chế tạo thành công một số thiết bị quân sự, được Bộ Quốc phòng, các đơn vị trong toàn quân đánh giá tốt, mở ra hướng đi chiến lược cho ngành chế tạo thiết bị quân sự có hàm lượng công nghệ cao.
|
Công ty Cổ phần Công nghệ Viettel ra đời, ban đầu làm tối ưu mạng di động cho thị trường Việt Nam, Cam-pu-chia, Mô-dăm-bích, rồi kinh doanh dịch vụ truyền hình, cung cấp phần mềm. Phần mềm ERP do Công ty sản xuất đã được bán cho tập đoàn và doanh nghiệp nước ngoài, mang lại hiệu quả to lớn trong quản trị doanh nghiệp. Nếu mua của nước ngoài phải hơn 3000USD cho một vị trí sử dụng, cả Viettel phải mất mấy chục triệu USD. Chỉ bán chất xám, mỗi năm công ty cũng “kiếm” được 300-400 tỷ đồng.
“Có thực mới vực được… khoa học”. Năm 2010, doanh thu của Viettel đã rất cao nên Ban Lãnh đạo Viettel muốn tham gia nghiên cứu, sản xuất. Đây cũng là quy luật thường thấy ở các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Nhưng Viettel nghiên cứu không chỉ để kinh doanh mà để thực hiện ước mơ cháy bỏng: Góp phần hiện đại hóa quân đội, trước hết trong lĩnh vực “của nhà trồng được”. Vốn là Giám đốc Nhà máy Thông tin M1, Tổng giám đốc Hoàng Anh Xuân lúc đó ra đầu bài: “Trong 6 tháng phải chế tạo được cái máy tương đương nhập của một nước châu Á”. Chiến mạnh dạn: “Tôi xin làm luôn như công nghệ Mỹ”. Cái đó để bước 2!-Anh Xuân quả quyết.
Trước đó, Viettel cũng thành lập một vài bộ phận mà chưa ra sản phẩm. Ban lãnh đạo quyết định phải thành lập một bộ phận chuyên sâu nghiên cứu. Thế là Viện Nghiên cứu phát triển Viettel ra đời. Chiếc ghế nóng của Viện được trao cho Nguyễn Đình Chiến.
Dần hiện thực hóa…
Ra-đa. Chuyện này đâu có mới với anh em Viettel mà từng được bàn thảo từ lâu. Quân chủng Phòng không-Không quân đã nghiên cứu rất nhiều năm nhưng chưa đủ nguồn lực chế tạo. Vậy thì sao không kết hợp cùng làm để không phải mua thiết bị bảo vệ vùng trời, xa hơn là có thể… bán lắm chứ? Ý tưởng lớn gặp nhau. Thượng tướng Lê Hữu Đức, khi đó là Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đồng tình, Viettel phối hợp với quân chủng thực hiện. Lúc đầu, các kỹ sư trẻ Viettel còn bị nghi ngờ, “ngựa non háu đá”, nhưng do chịu khó miệt mài làm việc, chinh phục dần qua các lần thử nghiệm, họ đã thành công. Một bộ ra-đa mua của nước ngoài có giá khoảng hàng chục triệu USD thì nay Viettel sản xuất chỉ bằng 30-40%. Chỉ một năm, ra-đa phiên bản Viettel ra đời thành công và đến năm 2015, giấc mơ xuất khẩu sản phẩm này đã hội tụ đủ điều kiện.
Song song với ra-đa là Hệ thống quản lý vùng trời quốc gia VQ. Nguyễn Đình Chiến đã sát cánh cùng làm, cùng tháo gỡ khó khăn với đội ngũ chuyên gia, giải quyết tốt các thuật toán, mạch điện, sơ đồ, nguyên lý, kiểu dáng công nghiệp. Lúc đầu, với hệ thống VQ, đối tác nước ngoài chào hàng hàng trăm triệu USD, Viettel xin chuyển giao công nghệ thì họ không đồng ý. Viettel tự nghiên cứu có kết quả tốt, đối tác đồng ý chuyển giao công nghệ với giá còn 50%, rồi 30% nhưng Viettel đã làm được. Sau 2 năm sản phẩm này đã hoàn chỉnh, đạt thế ngang bằng các nhà thầu quốc tế, nghiệm thu tương đương sản phẩm nước ngoài nhưng giá chỉ bằng 30% nhập ngoại.
Những sản phẩm đó không chỉ tiết kiệm cho ngân sách hàng nghìn tỷ đồng mà còn giúp làm chủ để Tổ quốc không bị bất ngờ mới là giá trị lớn nhất. Hiện nay, Viettel đã thử nghiệm sản xuất thành công máy bay không người lái (UAV), có thể ứng dụng cho bộ binh, hải quân, biên phòng, kiểm ngư… Năm 2015, UAV sẽ được sản xuất hàng loạt. Đáng mừng hơn nữa, tỷ lệ “Made in Việt Nam” đã đạt 80%. Trên cơ sở này, có thể làm các thiết bị bay lớn để tăng cường khả năng quản lý vùng biển, vùng trời Tổ quốc.
Đại tá Nguyễn Đình Chiến bộc bạch ước mơ lớn của mình cũng như của các thế hệ lãnh đạo Viettel là xây dựng được một nền công nghiệp quốc phòng và hàng không vũ trụ. Một không gian rộng lớn nhưng cũng đầy thách thức. “Viettel-Nơi khát vọng không bao giờ dừng lại”, câu nói của các nhà khoa học Viettel khiến tôi nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nga Xi-mô-nốp: “Ta vui với đời ta chiến đấu”. Hy vọng những người lính, những nhà khoa học ấy sẽ làm được, đóng góp nhiều hơn cho giấc mơ “ngựa sắt”…
Bài và ảnh: NGUYÊN MINH - NGUYỄN HÒA