QĐND - Nói về bản thân, cựu chiến binh (CCB) Nguyễn Ngọc Viên tâm sự: “Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, đời mình giống như cái cây phải hứng chịu nhiều bão tố, có lúc “khô héo” tưởng chừng không gượng dậy nổi nhưng nhờ sự kiên trì, nỗ lực cuối cùng cũng đơm hoa, kết trái”.

Về xã Đạm B’ri, thành phố Bảo Lộc (Lâm Đồng), chúng tôi như trôi trên biển xanh của những đồi chè, cà phê, dâu tằm bát ngát. Giữa bạt ngàn xanh là xóm làng trù phú cùng nhịp sống thanh bình. Phía cuối con đường nhỏ dẫn vào thôn 4, ngôi nhà mới của gia đình cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Viên rực rỡ dưới nắng chiều. Trong nhà, mọi đồ nội thất đều mới tinh, đồng bộ. Rót chén trà thơm mời khách, chủ nhà hồ hởi khoe.

CCB Nguyễn Ngọc Viên chăm sóc con gái Nguyễn Thị Yến.

- Ngôi nhà này vừa khánh thành cách đây 4 tháng, tổng chi phí hơn 500 triệu đồng. Đây là phòng khách, kia là 3 phòng ngủ, phía sau là phòng bếp, nhà vệ sinh, bên này là ga-ra ô tô. À! Mà tớ vừa thi được bằng lái, cậu xem. Tớ đang phấn đấu để sớm mua một chiếc phục vụ đi lại.

Ngắm cơ ngơi khang trang cùng gương mặt rạng rỡ niềm vui của chủ nhà, ít ai có thể ngờ rằng, con người ấy đã từng có quá khứ nhiều gian nan, bất hạnh. Sinh ra và lớn lên trên vùng quê chiêm trũng thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, đầu năm 1972, Nguyễn Ngọc Viên lên đường nhập ngũ. Sau 3 tháng huấn luyện, anh về công tác tại đại đội 9, tiểu đoàn 8, trung đoàn 241, sư đoàn 367, tham gia trận chiến 81 ngày đêm tại Thành cổ Quảng Trị. Do lập được nhiều chiến công xuất sắc, lại đã tốt nghiệp cấp 3 nên cuối năm 1973, anh được điều ra miền Bắc học Trường Sĩ quan Phòng không. Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, do đội ngũ sĩ quan hải quân phục vụ công tác tiếp quản và bảo vệ các vùng biển đảo phía Nam thiếu, Bộ Quốc phòng điều động một bộ phận học viên các trường sĩ quan về đào tạo tại Trường Sĩ quan Hải quân. Năm 1977, sau khi tốt nghiệp, thiếu úy Nguyễn Ngọc Viên về công tác tại Vùng 4 Hải quân, làm thuyền phó, rồi thuyền trưởng, tham gia chiến đấu tại chiến trường Cam-pu-chia. Năm 1981, Nguyễn Ngọc Viên chuyển ngành về Xí nghiệp tàu cuốc Hà Nam Ninh, tháng ngày rong ruổi đi nạo vét, mở thông các luồng lạch khắp các dòng sông, cửa biển vùng Đồng bằng sông Hồng. Đến năm 1993, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ông quyết định xin nghỉ theo chế độ 176.

Khi từ giã con tàu cùng những chuyến lênh đênh để trở về với gia đình, CCB Nguyễn Ngọc Viên đã hình dung về một tương lai tươi sáng. Rồi đây, vợ chồng sẽ không còn cảnh xa nhau biền biệt, những đứa con sẽ có hơi ấm bàn tay của bố. Với những dự định đang ấp ủ cùng sự quyết tâm, ông tin mình sẽ vực dậy được kinh tế gia đình, vợ con sẽ bớt phần đói khổ. Tuy nhiên, ngày đầu tiên bước chân về tới nhà cũng là ngày ông nhận được tin sét đánh: Vợ bị ung thư. Để có tiền đi lại, mua thuốc men chạy chữa cho vợ, ông đã bán mọi thứ trong nhà có thể bán được. Sau 2 năm kể từ ngày phát hiện ra bệnh, vợ ông qua đời. Ngày vợ mất, 4 đứa con thì cháu đầu mới 14 tuổi, cháu nhỏ nhất 8 tuổi. Bên chiếc quan tài giữa căn nhà lạnh lẽo, xung quanh là những tiếng khóc xé lòng của những đứa con mất mẹ, ông thấy mình tê dại trong nỗi đau. Nhưng cũng trong giây phút ấy, ông tự nhủ phải mạnh mẽ, cứng rắn để trở thành chỗ dựa cho các con trong quãng đời phía trước.

Sau ngày vợ mất, ông một mình “gà trống nuôi con”. Quãng thời gian chữa bệnh cho vợ, kinh tế gia đình đã lâm vào cảnh khánh kiệt. Cả nhà với 5 miệng ăn lúc ấy chỉ trông chờ vào vài sào lúa. Khổ nỗi, ở cái xứ quanh năm lụt lội như Bình Lục, kiếm được hạt lúa chẳng dễ dàng. “Anh đã từng nghe câu ca “Bình Lục hò reo, khắp nơi treo cày” chưa? Cách đây vài chục năm, khi chưa có hệ thống thủy lợi như bây giờ thì chỉ khi nào khắp nơi hạn hán, khô nẻ Bình Lục mới khỏi lụt, mới có cái ăn. Mà điều đó thì hiếm hoi lắm.”-CCB Nguyễn Ngọc Viên kể.

Có năm mất mùa, đói kém quá, ông phải mang mấy đứa con sang gửi cho ông bà nội rồi biến ngôi nhà mình thành chuồng nuôi gà, vịt với hy vọng kiếm thêm vài đồng đong gạo. Ban ngày chăm sóc lũ gia cầm, đêm đến ông ngủ trên chiếc giường kê giữa nhà, xung quanh là lũ gà, vịt cùng những tiếng kêu quang quác và mùi phân nồng nặc.

Hai năm sau ngày vợ mất, có một người con gái cùng thôn thương cảm cho hoàn cảnh của ông và mấy cháu nhỏ nên đã nhận lời làm vợ ông. Lúc này, những di chứng quái ác của chất độc màu da cam mà ông đã mắc phải trong thời gian đi chiến đấu bắt đầu phát tác. Cuối năm 1997, con gái đầu của hai người là Nguyễn Thị Yến chào đời. Bế đứa con mềm oặt, ánh mắt vô hồn trên tay, trong ông xuất hiện những dự cảm không lành. Theo thời gian, linh cảm trở thành sự thật. Bác sĩ kết luận cháu bị thiểu năng vận động và trí tuệ. Trong khi các bạn cùng trang lứa đã học, đi chơi thì cháu chỉ biết bò lổm ngổm trong nhà, miệng phát ra những âm thanh ú ớ, mọi nhu cầu sinh hoạt như ăn, uống, vệ sinh đều không thể tự thực hiện. Mấy năm sau, cháu thứ hai sinh ra cũng bị liệt nửa người. Nhìn vợ âu sầu, héo hon vì con, ông thấy mình có lỗi, thấy phận mình sao thật hẩm hiu. 

Cuộc sống gia đình ngày càng khốn khó, bức bách. Nếu chỉ trông chờ vào vài hạt lúa ngoài đồng thì chẳng bao giờ thoát cảnh đói nghèo. Ông nghĩ thế và quyết định đi làm ăn xa. Xã Hưng Công quê ông vốn có nghề truyền thống làm long nhãn. Sau khi vay mượn từ người thân, bạn bè được 10 triệu đồng, năm 1997, ông cùng bạn bè vào Bảo Lộc (Lâm Đồng) mua nhãn. Thường các thương lái trả tiền đặt cọc lúc nhãn còn xanh, đợi khi chín sẽ tới hái. Vùng Bảo Lộc có nhiều dơi, sợ lũ dơi ăn nhãn nên sau khi đưa tiền đặt cọc cho chủ vườn, ông lấy bao ni-lông bọc toàn bộ các chùm nhãn lại. Túi ni lông kín cộng thêm thời tiết nóng ẩm nên sau một thời gian, nhãn bị rụng thối hết, toàn bộ vốn liếng tan thành mây khói.

Hết tiền, ông không dám về quê mà cứ lang thang ở Bảo Lộc. Những ngày vạ vật ở đây, ông nhận thấy vùng đất này tốt tươi, trù phú, có thể lập nghiệp. Qua sự giới thiệu và bảo lãnh của người quen, ông mua chịu được 1 mảnh đất nhỏ ở thôn 4, xã Đạm B’ri. “Khi ấy, nó là mảnh đất nằm ở vị trí xó xỉnh, um tùm cỏ dại. Trên đó, tôi dựng một cái lều làm bằng cành cà phê, lợp giấy dầu rồi về quê đón vợ cùng các con vào”- CCB Nguyễn Văn Viên nhớ lại.

Vào Bảo Lộc, hai vợ chồng bắt đầu những ngày “cuốc đất, lật cỏ” lần hồi kiếm sống. Ban ngày đi làm thuê, buổi tối khi các con đi ngủ, họ lại ra vườn phát cỏ, cuốc đất, dọn tới đâu trồng ngô, rau, đậu tới đó. Dù không còn cảnh đứt bữa nhưng trong nhiều năm, gia đình vẫn thuộc diện hộ nghèo. Năm 2006, được Hội CCB xã bảo lãnh vay vốn Ngân hàng chính sách xã hội được 10 triệu đồng và Hội nạn nhân chất độc màu da cam thành phố Bảo Lộc cho vay không lãi 5 triệu đồng, hai vợ chồng quyết định xây chuồng nuôi lợn với phương thức khép kín. Theo đó, lợn nái đẻ con được giữ lại nuôi thành lợn thịt, phân và nước thải được xử lí thành khí ga làm chất đốt và phân bón. Nhờ cần cù, chịu khó, chẳng bao lâu đàn lợn từ vài con đã phát triển thành hàng trăm con, khu chuồng trại cũng liên tục được mở rộng. Đến nay, trong chuồng trại của gia đình ông thường xuyên có 20 con lợn nái, 200 con lợn thịt, trung bình mỗi năm xuất bán 30 tấn lợn thịt, thu lãi khoảng 300 triệu đồng. Khi đồng vốn trong nhà tăng, họ tiếp tục mua thêm đất, thuê thêm vườn để mở rộng sản xuất. Ngoài khu chuồng trại quy mô, gia đình CCB Nguyễn Ngọc Viên hiện còn có 1ha đất trồng cà phê và 2,5 sào đất trồng dâu nuôi tằm, mỗi năm cho thu hoạch khoảng 3 tấn hạt cà phê, 5 tạ kén tằm, lợi nhuận đạt gần 200 triệu.

Quá trình sản xuất không phải lúc nào thuận lợi, có thời điểm đàn lợn bị dịch chết hàng loạt, vườn cà phê bị nấm bệnh, giá cả thị trường xuống thấp khiến gia đình lao đao. Tuy nhiên, nhờ cần cù, không nản chí, thường xuyên học tập, rút kinh nghiệm nên rủi ro ngày càng ít. “Để giữ sức khỏe cho đàn lợn, tôi luôn cách ly và kiểm soát vệ sinh trong khu chuồng trại nghiêm ngặt. Dù có thuê nhân công nhưng chỉ có tôi và vợ được ra vào khu chuồng heo để chăm sóc, dọn vệ sinh hằng ngày”-CCB Nguyễn Ngọc Viên cho biết.

Nhằm giảm chi phí đầu tư, ông thường xuyên tham gia các tập huấn kĩ thuật do địa phương tổ chức, tham khảo trên sách báo, đi thăm quan, học tập kinh nghiệm từ các trang trại trong vùng. Nhờ đó, ông có thể tự mình thực hiện nhiều kĩ thuật nuôi trồng như: Chọn giống, phối giống, chăm sóc heo đẻ, heo con, heo thịt, tiêm chủng, làm lớp đệm sinh học, ghép cà phê.v.v. Một trong những “bí quyết” khác là ông chấp nhận mạo hiểm, mà theo cách nói của ông là phải “liều”. "Có những lúc trong vùng xảy ra dịch bệnh, người ta sợ lây lan nên bán đổ bán tháo, riêng tôi vẫn kiên quyết giữ đàn, không bán giá rẻ. Thậm chí tôi còn thu mua rồi chăm sóc, cách ly thật tốt. Sau khi đợt dịch đi qua, đàn heo của tôi vẫn khỏe mạnh, lúc ấy tôi bán ra với giá cao”- CCB Nguyễn Ngọc Viên chia sẻ.

Là Chi hội trưởng Chi hội CCB, đồng thời là công an viên của thôn 4, CCB Nguyễn Ngọc Viên không chỉ thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân giữ gìn an trật tự thôn xóm mà còn tích cực giúp đỡ các hộ gia đình phát triển kinh tế bằng cách cho vay vốn, cây con giống, thuê nhân công phụ giúp; không ngừng nâng cao uy tín, vai trò của chi hội CCB trong cộng đồng. Nhiều năm liền, CCB Nguyễn Ngọc Viên được bầu chọn là nông dân sản xuất giỏi cấp huyện, cấp tỉnh; gương mặt tiêu biểu trong phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" của thành phố Bảo Lộc. Năm 2015, ông được Ban Chấp hành Trung ương CCB Việt Nam và Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua CCB gương mẫu phát triển kinh tế và tham gia các hoạt động xã hội.

Bài và ảnh: VŨ ĐÌNH ĐÔNG