QĐND - Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến vai trò của đạo đức, phẩm chất mà mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện trong công tác. Trong một quốc gia, sau Hiến pháp phải có một nền đạo đức chi phối đến cách sống và nếp nghĩ của mỗi người. Hồ Chí Minh đã trải qua nhiều thử thách, chịu đựng nhiều gian khổ nhưng vẫn giữ vững bản lĩnh, cốt cách của một người chiến sĩ cách mạng. Người thấu hiểu được những nỗ lực, những hy sinh của cán bộ, bộ đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp phải xa gia đình, thậm chí phải chịu đựng những thương tổn. Trong các bức thư gửi đồng bào, chiến sĩ, bao giờ Người cũng bày tỏ lòng cảm phục nghiêng mình trước anh linh các liệt sĩ, bày tỏ lòng biết ơn các bà mẹ kháng chiến, các thương binh…

Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cảm hứng nhân đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất sâu nặng về tình người, đặc biệt là lòng cảm thương những con người đang chịu nhiều đau khổ, đang vất vả và dũng cảm vượt lên những thử thách trong cuộc sống. Lá thư chúc Tết đồng bào trong vùng bị địch tạm chiếm bộc lộ tình cảm tôn trọng và cảm thương đồng bào còn phải sống dưới ách chiếm đóng của kẻ thù: “Tôi rất đau lòng thương xót đồng bào tạm lâm vào hoàn cảnh ấy, vì lũ thực dân hung ác, nhưng một phần cũng vì tôi, người phụ trách số phận đồng bào, chưa lập tức xua đuổi được loài thú dữ và cứu vớt ngay đồng bào ra khỏi địa ngục thực dân”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, tr.560).

Đặc biệt là tình cảm thương xót và biết ơn những liệt sĩ đã quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhiều anh hùng như: Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện... đã hy sinh cho chiến thắng muôn đời của Tổ quốc. Hòa bình lập lại, trở về Thủ đô, điều đầu tiên là Người đi viếng các anh hùng liệt sĩ. Người nói lời xúc động trước anh linh các liệt sĩ:

Hỡi các liệt sĩ!

Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc...

Một nén hương thành,

Vài lời an ủi.

Anh linh của các liệt sĩ bất diệt!

Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm!

(Sđd, tập 7, tr.427).

Một trong những phẩm chất quan trọng của đạo đức Hồ Chí Minh là những ứng xử trân trọng và yêu thương của Người với bạn bè thân hữu. Trước hết là với những bậc trí thức cao niên đã có nhiều đóng góp cho công tác cách mạng. Tuổi cao, Người tôn trọng nhiệt huyết và ý chí cách mạng của các cụ và khi các cụ qua đời để lại sự buồn thương.

Năm 2012, GS Hà Minh Đức được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về bộ công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có những công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: THI THƠ.

Khi cụ Nguyễn Văn Tố qua đời, Người xúc động và muốn viết một bài truy điệu. Người gửi thư cho cụ Bùi Bằng Đoàn, tâm sự: “Xưa nay tôi chưa hề tập viết văn tế. Vậy tôi cứ bạo dạn thảo ra đây, trình cụ xem. Nếu có thể sửa được thì xin cụ sửa giùm. Nếu không thể sửa, thì ta làm văn xuôi vậy”. Và bài văn tế được Người viết xúc động, vừa nói lên tấm lòng thương tiếc và công đức của người đã qua đời:

LỜI ĐIẾU CỤ TỐ

Than ôi!

Sương bay nghi ngút, sao Đẩu ám mờ

Mây phủ mê man, Thái Sơn ngừng biếc.

Nhớ cụ xưa,

Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu

Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết

Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng

Phú quý công danh, cụ nào có thiết!

Và phần cuối của bài điếu là lời hứa:

Tôi kính cẩn nghiêng mình trước anh linh cụ mà hứa rằng

Từ đây, quốc dân ta đã đồng tâm, càng thêm đồng tâm

Chính phủ ta đã kiên quyết, càng thêm kiên quyết

Quyết trường kỳ kháng chiến cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn (…)

                                                                   (Sđd, tập 5, tr.434)

Với nỗi đau khổ của người thân hữu, Người bộc lộ tình cảm xót xa, thương tiếc nhưng với nỗi buồn riêng lại nén chịu đựng trong lòng. Khi được tin người anh cả, cụ Nguyễn Sinh Khiêm mất, Người không có điều kiện về chịu tang đã gửi thư “Gửi họ Nguyễn Sinh”:

          Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.

          Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước.

                                                         Ngày 9 tháng 11 năm 1950

                                                                   Hồ Chí Minh

Đối với một số cán bộ gần gũi, Người cũng có tình cảm đặc biệt. Nhà thơ Huy Cận được công tác ở Phủ Chủ tịch nhiều năm. Nhà thơ kính trọng và được gần gũi Bác, được Bác quý mến. Ông kể, có một đêm mưa to không về nhà được, ông được Bác cho ngủ lại trong căn phòng của Bác. Trên chiếc giường rộng, Huy Cận nằm mấp mé ở bên ngoài vì sợ đụng chạm đến Bác. Bác bảo: “Chú nằm lui vào kẻo ngã”. Hồ Chí Minh toàn tập có bài “Thư gửi ông Cù Huy Cận” có đoạn viết:

Chú Cận,

Đã lâu không gặp chú, nhớ lắm.

Nay có việc cần. Chú phải về ngay. Về đến thì tìm gặp Nam gấp. Công việc trong đó, giao lại cho chú Nhân.

Tôi gửi lời thăm tất cả đồng bào trong ấy.

Chào chú!

                             Hồ Chí Minh

                   Ngày 5 tháng Giêng năm 1947

Riêng với Huy Cận, ông còn được Bác tặng cho một bài thơ nhân dịp nhà thơ kính tặng Bác tập thơ “Bài thơ cuối đời” và xin Bác đôi lời nhận xét. Bác gửi cho nhà thơ bốn câu:

Cám ơn chú biếu Bác quyển thơ

Bác đã xem qua suốt mấy giờ

Bảo Bác nhận xét thật khó nhỉ?

Bài hay xen lẫn với bài vừa!

(Bài thơ này ông Huy Cận phóng to, lồng kính và treo ở nhà. Hôm tôi đến chơi, ông chỉ cho xem và nói: Các ông cứ tham khảo ý Bác mà đánh giá thơ tôi!).

Đặc biệt là tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ông Nguyễn Khánh Toàn. Người gặp Nguyễn Khánh Toàn ở Mát-xcơ-va và xem Nguyễn Khánh Toàn như người em. Khi về nước ở Việt Bắc, ông có dịp được công tác, gần gũi Bác và được xưng hô với Bác là anh-em. Trong “Thư gửi ông Nguyễn Khánh Toàn”, Người viết: “Chú Lĩnh. Chú ốm đi ốm lại mãi. Mình lo cho sức khỏe của chú. Phải cố gắng uống thuốc đi cho khỏi, hoặc nhờ thầy thuốc tiêm cho. Chớ để ốm mãi như vậy, chú đã yếu mà anh cũng lo. Thân ái và quyết thắng. Ngày 20 tháng 8 năm 1947. ANH” (Sđd, tập 5, tr.194). Những bài viết của Người với các tầng lớp nhân dân thể hiện một tấm lòng nhân hậu, quý mến đồng bào đồng chí, bạn hữu. Tình cảm đó xuất phát từ nền tảng đạo đức của dân tộc và đạo đức cách mạng mà Người đã trải nghiệm và rèn luyện trong suốt cuộc đời đấu tranh cách mạng. Chủ nghĩa nhân đạo cách mạng chính là bề sâu của đạo đức Hồ Chí Minh.

Đáp lại tấm lòng yêu thương và công ơn của Người, các tầng lớp nhân dân đều biểu thị tình cảm kính mến Người. Trong ngày Tết Độc lập, họa sĩ Diệp Minh Châu đã lấy những giọt máu hồng chích từ ngón tay để vẽ nên chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và ba em nhỏ Bắc-Trung-Nam. Trong nhà tù của Mỹ-Diệm, họa sĩ vẫn cố giữ tấm ảnh nhỏ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nuôi dưỡng chí khí cách mạng và niềm tin. Ở miền Bắc, những câu hát vẫn ngày ngày vang lên từ miệng trẻ: “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng”, “Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ”... Các nhà thơ: Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Minh Huệ, Việt Phương đều có thơ hay về Người. Đặc biệt, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, không chỉ nhân dân Việt Nam đau thương vô hạn mà bè bạn trên thế giới cũng thương tiếc Người. Bà Giô-han-na, phu nhân của Thủ tướng Đức Grốt-tơ-vôn, viết: “Có lẽ nào một bậc vĩ nhân như Chủ tịch Hồ Chí Minh lại từ giã cõi đời này được?”. Nữ văn sĩ Đức An-na Dê-gớc-dơ cũng từng nói rằng: “Chúng tôi xin nghiêng mình trước lãnh tụ vĩ đại, nhà thơ tinh tế, người đồng chí kính mến, người bạn vô cùng thân thiết”. Cao tăng Nhật Bản Ri-ô Ô-mi-si, với bài thơ “Trời xanh đón Người về” bày tỏ sâu sắc lòng thương tiếc Người:

Trời xanh đón người cứu nước về

Đau lòng chúng sinh trên đường mê

Xưa nay hiếm bậc lão anh kiệt

Chiếc lá thu bay trời ủ ê…

GS, NGND HÀ MINH ĐỨC