QĐND - Từ khi tôi bước chân vào nhà cho tới lúc bữa cơm dọn ra, có lẽ đã hơn một giờ, ông Bảy Khang chỉ phân trần về gạo năm nay chưa bán được một nửa, mà năm mới Ất Mùi đã tới trước mặt rồi. Được mùa liên tiếp mấy năm, bị thương lái trở nước ép giá, bán sao nổi? Ông nói vậy làm tôi cũng cảm thấy nóng ruột khi thấy thóc đóng thành bao tải chất đầy dãy kho dài cặp bên vườn, gạo chà xong cho vào bao bố chồng từ mặt đất lên trần nhà ngang. Ở đây, nhà nào cũng còn đọng lại nhiều thóc. Mùa gặt mới sắp tới rồi mà chưa giải phóng hết thóc mùa trước, gặt về biết để vào đâu. Thóc gạo không bán được, vốn ứ đọng, lãi vay mua giống, phân bón, thuốc trừ sâu của ngân hàng cứ nhân lên mãi, không lo sao được. Trong bữa cơm cuối năm, giữa sân có mái che, gió từ sông rạch tràn lên rười rượi, khi ăn cơm, lúc hạt cơm rơi xuống bàn, ông Bảy vội lượm lên. Cô bạn nhà báo trẻ trong đoàn chúng tôi cười thốt lên hồn nhiên:
- Gạo chất dồn ế hàng, cơm cả nồi lớn, vậy mà tội gì ông nhặt hạt cơm rơi?
Ông Bảy Khang cười đôn hậu, rồi lặng đi một hồi khá lâu:
- Đó là thói quen của ông. Các con biết không, cách đây bảy chục năm, ông đã chứng kiến nạn đói chết cả triệu đồng bào ta. Dân ta gọi là nạn chết đói năm Ất Dậu. Thái Bình quê ông là một trong những vùng có người chết đói nhiều nhất.
 |
Thắng cảnh Tràng An (Ninh Bình) điểm đến ưa thích của du khách. (Ảnh: THU THỦY)
|
Ông Bảy kể, Thái Bình quê ông cũng là vựa lúa của Đồng bằng Bắc Bộ, năm Ất Dậu, lúa sắp trổ đòng theo tiếng sấm, nông dân đã khấp khởi hy vọng được mùa thì giặc tràn về thúc cường hào bắt dân nhổ lúa để trồng đay. Nạn đói bắt đầu từ đầu tháng Ba, gọi là tháng giáp hạt… Thóc gạo không còn, người ta đôn đáo kiếm các thứ để ăn, phải ăn cả thân cây chuối, thân cây đu đủ, sau đó mọi thứ đều hết sạch, thân thể người nào cũng gầy rộc, má hóp, mắt trắng dại, vật vờ đi khắp nơi, bắt đầu chết đói, lúc đầu rải rác trong làng có mấy người chết, dần dần con số tăng lên, làng nào cũng có cả chục người chết trong vài ba ngày, người chết nhiều tới độ không mai táng kịp. Mà người sống cũng đói đến kiệt sức, không còn đủ sức cầm cây mai, cây cuốc đào huyệt. Rồi tin người chết đói ở Nam Định, Hưng Yên… dội về.
Cho tới bây giờ, nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử vẫn đến với ông Bảy trong những cơn mê ngủ, với những thân người trơ xương, mắt trắng dã lết đi khất thực...
Như thấy mình đã làm khách buồn, giọng ông Bảy hào hứng:
- Chính lúc tưởng như nạn đói sẽ xóa sạch dân, Đảng ta phát động khởi nghĩa giành chính quyền, phá kho thóc Nhật cứu đói cho dân.
Vẫn lời ông kể: Một sáng sớm, dân làng nghe tiếng trống, lúc đầu ở xa, sau nghe rõ dần, thức dậy ngó ra đầu làng đã thấy bừng lên một ngọn cờ đỏ trên cây đa. Rồi tiếng trống của làng cũng thúc lên, dân kéo nhau đến và thấy một người phụ nữ đang nói về tội ác của giặc và phát động dân đi phá kho thóc. Khi được ăn bữa cơm ấy, người ta tưởng như ăn bữa cơm đầu đời mình. Dân làng náo nức, thanh niên trai tráng tham gia tự vệ, người cao tuổi tham gia hội phụ lão rồi hội phụ nữ. Đám Việt gian phản động chuồn đi đâu hết, chính quyền thuộc về nhân dân. Người dân bắt tay xóa bỏ cây đay để trồng lúa, trồng khoai. Có một điều hết sức kỳ diệu là lúc chính quyền vừa mới thành lập, Bác Hồ đã kêu gọi diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Thời gian đầu là trồng cây lương thực ngắn ngày, trồng khoai, gieo các loại rau để có cái ăn, kế tiếp là vỡ đất khai hoang để có đất canh tác. Trong làng xóm, dân ta tham gia các lớp học bình dân, xóa mù chữ, người cao tuổi cũng được học… Đâu đâu cũng vang tiếng hát, tiếng hò. Mọi người đều thấy chính quyền mới thực sự là của nhân dân, là của chính mình, ai cũng được ngẩng cao đầu. Phải sống triền miên trong chế độ thực dân, nhan nhản trong làng là đám cường hào tha hóa, chuyên cướp bóc, uy hiếp dân, mở miệng ra là văng tục với dân, thì mới thấy được giá trị của chính quyền nhân dân.
Thời đánh Mỹ, vẫn có nhiều gia đình sống giữa Đồng Tháp Mười thiếu ăn. Đồng thì rộng mênh mông nhưng là xứ sở của năn lác, ba tháng nước nhiễm phèn, ba tháng nước nhiễm mặn, sáu tháng chìm trong biển nước mênh mông, muốn cắm cây lúa xuống là phải phát cỏ, cày bừa, thau chua, rửa mặn. Sức một vài gia đình, thậm chí cả một ấp cũng không làm nổi. Hơn thế, trên trời, máy bay phản lực Mỹ gầm rú, trực thăng rà xoi để tìm du kích, bộ đội, tiếng bom, tiếng pháo nổ khắp nơi. Thành ra đồng để hoang, ăn gạo nước ngoài bày bán ở chợ.
Ngay sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, vấn đề khai khẩn Đồng Tháp Mười đã được chú ý. Đầu tiên là các đơn vị bộ đội về cùng với nhân dân khai khẩn, đắp đê ngăn mặn, xẻ kênh rạch cho nước ngọt vào đồng. Ngày ấy vẫn gieo sạ giống lúa cổ truyền nên năng suất thấp, nhưng đã đủ ăn. Sau đó, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long đưa giống lúa cao sản, lúa thần nông, nguồn phân bón, thuốc trừ sâu tốt nhất về các địa phương, đã tạo sự đột biến về năng suất, mỗi năm ba vụ gặt. Gạo Tháp Mười được xuất sang nhiều nước trên thế giới.
Giờ đây, làng ấp ở Đồng Tháp Mười đã thay đổi hoàn toàn, nhà cửa nhân dân xây khá khang trang, không còn loại nhà cột là những cây đước, cây tràm chống lên, mái tấp những tấm lá dừa nước. Đường sá được đổ bê tông hoặc trải nhựa, nước ngọt cũng đã đủ dùng. Chương trình xây dựng nông thôn mới đã mang lại kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, vẫn có nhiều gia đình thuộc loại nghèo vì thiếu vốn sản xuất, thiếu lao động. Nghèo nhưng gạo nước không thiếu. Còn số gia đình thóc gạo chất đầy kho cũng không thể kể xiết!
Rồi ông cất tiếng cười hể hả:
- Nỗi lo không bán được thóc gạo, nhưng với thời trước, bây giờ như thiên đường. Cho dù việc bán thóc đang gặp phải khó khăn, nhưng đây là khó khăn cho ta niềm vui. Có điều, dẫu sống trong cảnh được mùa thóc lúa dư thừa, chúng ta cũng đừng quên dân ta đã từng trải qua trận đói năm Ất Dậu...
Nhà văn NGUYỄN QUỐC TRUNG