Trong cuộc đối mặt với các thế lực xâm lược giàu có, dân tộc ta phải gồng mình lên để chiến đấu và chiến thắng bằng sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, bằng trí tuệ của chiều sâu văn hiến kết tụ lại từ mấy nghìn năm. Nói bao nhiêu, viết bao nhiêu cũng không hết, không đủ về sự hy sinh của dân tộc. Thi ca cũng vậy, dù đã có một dòng thi ca tưởng niệm và tri ân chảy suốt bảy thập kỷ qua, nhưng dường như vẫn chưa phủ thấm hết những miền thương đau vời vợi trên dải đất hình chữ S này. Theo dòng thời gian và bối cảnh xã hội, tôi thấy thơ viết về đề tài này có những biến đổi đáng kể.

Nỗi đau lạc quan

Từ cuối năm 1946, cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Sau 9 năm kháng chiến, tháng 5-1954, chúng ta đã có được một Điện Biên “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”, giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Số phận nghiệt ngã lại đặt lên vai dân tộc ta một cuộc chiến tranh khốc liệt mới kéo dài hơn 20 năm từ năm 1954 đến năm 1975 chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Đây là giai đoạn lịch sử “Việt Nam máu và hoa”, có bao nhiêu chiến công kỳ tích lừng lẫy là có bấy nhiêu mất mát đau thương to lớn. Rất nhiều người con ưu tú của Tổ quốc đã dấn thân và ngã xuống trong cuộc chiến đấu giải phóng đất nước. Thơ ca trong giai đoạn này không thể không đảm nhận vai trò đánh giặc. Theo cách bày tỏ của Chế Lan Viên, đó là Ta sống những năm viên đạn nặng hơn người/ Nhiệm vụ thơ nặng hơn trang giấy... Đây là một cơ sở cho ta lý giải được phần nào vì sao thơ viết về sự mất mát hy sinh trong chiến tranh của giai đoạn này đầy đặn lòng lạc quan như thế. Đau xót mà vẫn lạc quan, đấy chính là đặc điểm chung dễ nhận ra của thơ viết về liệt sĩ của thời chống Pháp, chống Mỹ. Dấu ấn thời đại in vào đó; chiến sĩ, đồng bào ta phải vượt lên nỗi đau để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù hung bạo.

Từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, Hoàng Lộc đã có bài thơ “Viếng bạn” rất cảm động với những chi tiết cụ thể về sự hy sinh của đồng đội: Hôm qua còn theo anh/ Đi ra đường quốc lộ/ Hôm nay đã chặt cành/ Đắp cho người dưới mộ… Nỗi đau không thể nói là nhỏ: Khóc anh không nước mắt/ Mà lòng đau như thắt/ Gọi anh chửa thành lời/ Mà hàm răng dính chặt, nhưng vượt lên nỗi đau là lòng căm thù ngùn ngụt cùng với niềm tin sắt son vào chiến thắng sắp tới: Mai mốt bên cửa rừng/ Anh có nghe súng nổ/ Là chúng tôi đang cố/ Tiêu diệt kẻ thù chung.

“Tây Tiến” thực sự là một trong những bài thơ hay nhất xuất hiện trong thời chống Pháp. Trong “đoàn binh không mọc tóc” ấy có nhiều người vốn là thanh niên, học sinh Hà Nội tình nguyện đầu quân đánh giặc xâm lăng, đêm còn mơ về những “dáng kiều thơm” nơi mình đã ra đi. Có người đã ngã xuống nơi rừng thiêng nước độc nhưng cái chết của họ vẫn không hề ảm đạm, u ám, trái lại vút cao lên bản tráng ca lẫm liệt: Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Sự hy sinh của những người lính Tây Tiến giống như cái chết của những tráng sĩ nghĩa hiệp vậy, chẳng có mảy may ai oán, bi lụy.

Nỗi đau lạc quan thể hiện đậm nét trong tác phẩm “Núi Đôi” rất nổi tiếng của Vũ Cao. Bài thơ mang trong nó một câu chuyện tình yêu tuyệt đẹp: Bảy năm về trước em mười bảy/ Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng/ Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa/ Bữa thì anh tới, bữa em sang… Cùng nỗi đau mất mát quá lớn khi cô gái du kích người yêu của anh bộ đội hy sinh: Anh ngước nhìn lên hai dốc núi/ Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/ Núi vẫn đôi mà anh mất em… Và, vầng sáng của sự giao hòa bất tử có được từ lòng lạc quan cách mạng: Anh đi bộ đội, sao trên mũ/ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường/ Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

Bước sang giai đoạn chống Mỹ, ta càng thấy rõ hơn cái chất lạc quan trong những bài thơ viết về sự hy sinh. Trong “Quê hương” của Giang Nam, ta đọc được sự cao cả của những cái chết vì Tổ quốc: Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm/ Có những ngày trốn học bị đòn roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi. Cái chết của cô gái mở đường trong bài thơ “Khoảng trời, hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ cũng trở nên huyền ảo lạ kỳ: Em nằm dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong đất/ Đêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng/ Những vì sao ngời chói, lung linh/ Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong/ Đã hóa thành những làn mây trắng?... Hy sinh cho đất nước trở thành hạnh phúc của người ra trận. Trong “Nấm mộ và cây trầm”, Nguyễn Đức Mậu đã cảm nhận rất rõ điều này: “Chết-Hy sinh cho Tổ quốc” Hùng ơi/ Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất/ Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc/ Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng… Sự hy sinh của người chiến sĩ trên đường băng Tân Sơn Nhất năm 1968 được nâng lên thành hình tượng kỳ vĩ “Dáng đứng Việt Nam” như thơ Lê Anh Xuân khắc tạc: Tên Anh đã thành tên đất nước/ Ôi anh Giải phóng quân!/ Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân

Và tưởng niệm tri ân…

Chiến tranh kết thúc và lùi xa, chúng ta có điều kiện nhìn nhận hiện thực từng xảy ra một cách điềm tĩnh, toàn diện, sâu sắc hơn. Trong thơ ca, yêu cầu cổ vũ, động viên nhường chỗ cho sự tưởng niệm tri ân những người ngã xuống vì Tổ quốc. Nhiều bài thơ về liệt sĩ ra đời với niềm đau thương thăm thẳm, sự hồi tưởng day trở khôn nguôi một thời bi tráng khốc liệt. Các thi phẩm ấy theo dấu chân những đội quân đi tìm đồng đội, theo thân nhân liệt sĩ đến các nghĩa trang trong cả nước. Chân thực, xúc động là cảm nhận chung khi ta đọc những bài thơ đầy chất tưởng niệm tri ân như thế.

Nhiều lắm những thương tiếc, ngậm ngùi, thổn thức trong các tác phẩm viết về liệt sĩ. Nhân vật trong thơ đôi khi là người thân của tác giả như trong bài “Phan Thiết có anh tôi” của Hữu Thỉnh: Không nằm trong nghĩa trang/ Anh ở với đồi anh xanh vào cỏ/ Cỏ ở đây thành nhang khói của nhà mình/ Đồi ở đây cũng là con của mẹ/ Lo liệu trong nhà dồn xuống vai em; hay “Bài thơ người đi tìm phần mộ em trai mình” của Dương Kỳ Anh: Trước gió bão cuộc đời xô dạt/ Giờ em nằm nơi đâu trong đất lành Tổ quốc/ Anh đi tìm phần mộ em suốt mười mấy năm trời/ Anh đi tìm nắm-đất-cuộc-đời-em, chỉ gặp toàn kỷ niệm… Một ngọn khói hương ngàn ngạt nơi nghĩa trang liệt sĩ cũng làm trào dâng bao lớp sóng tiếc thương, tưởng chừng nghe được những thầm thì xao xác từ miền xa thẳm: Khói hương như thể mây mù/ Trắng trời lớp lớp lau gù đội tang/ Xạc xào gió lá ngụy trang/ Gió từ cõi đất gió sang cõi người! (“Gió đất”-Lê Đình Cánh)…

Sự tri ân liệt sĩ thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó không thể không kể tới các cuộc đi tìm đồng đội gian lao vất vả. Ở nhiều bài thơ, sự rung động từ trái tim người viết nhanh chóng truyền tải qua bạn đọc trong sự đồng cảm và chia sẻ vô cùng lắng đọng: Xin cho đau nỗi đau rừng/ Cánh cò trắng cả một vùng trời xa/ Đón em về lại quê nhà/ Với thầy mẹ, với ông bà tổ tiên… (“Đưa em về”-Nguyễn Văn Hiếu). Tri ân còn thể hiện ở sự thấu hiểu những “tâm tư” của người nằm dưới mộ. Yếu tố tâm linh được đưa vào thơ rất hợp lý và giàu sức truyền cảm như trường hợp bài thơ “Lời thỉnh cầu ở Nghĩa trang Đồng Lộc” của Vương Trọng: Cần gì ư, lời ai hỏi trong chiều/ Tất cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu/ Ngày bom vùi tóc tai bết đất/ Nằm xuống mộ rồi mái đầu chưa gội được/ Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang/ Cho mọc dậy vài cây bồ kết/ Hương chia đều trong hư ảo khói nhang…

Cũng cần phải nhắc tới những bài thơ viết về liệt sĩ trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước và làm nghĩa vụ quốc tế sau năm 1975. Đó là các bài thơ: “Gặp lại các em” của Nguyễn Đình Chiến, “Những ngọn sóng tỏa hương” của Trần Mai Hường, “Tổ quốc đón anh về” của Phan Vỹ… Anh linh những người lính ngã xuống nơi biên cương, biển, đảo vẫn tỏa thơm giữa lòng đất nước: Nơi các anh ngã xuống/ Máu đã thắm san hô/ Anh linh hòa sóng biếc/ Cứ tỏa hương từng giờ (thơ Trần Mai Hường)…

70 năm đã qua và còn dài lâu hơn thế, tôi tin dòng thơ tưởng niệm tri ân vẫn chảy, hướng về các anh hùng liệt sĩ. Một cõi xa thăm thẳm nhưng cũng quá đỗi gần gũi với dân tộc Việt Nam; cõi bất tử hội tụ những linh hồn hy sinh vì Tổ quốc sẽ mãi còn trong thơ như sự thương tiếc biết ơn không bao giờ vơi cạn.

NGUYỄN HỮU QUÝ