QĐND - Những ngày này, người làm báo, nhất là thế hệ chúng tôi, những người lính cầm bút đã đi qua mấy cuộc chiến tranh, không khỏi xúc động bồi hồi. Ngày 21-6-1925, tờ Thanh niên do Bác Hồ sáng lập đã ghi dấu son lịch sử và mở ra một kỷ nguyên mới của báo chí cách mạng Việt Nam. Gần một thế kỷ kể từ ngày ấy, nền báo chí cách mạng Việt Nam hôm nay đã và đang từng bước hiện đại hóa để vươn lên, để đuổi kịp với những bước tiến như cơn lốc của truyền thông thế giới.
Dù vậy, hôm nay khi cầm trên tay một tờ báo nước ngoài, tiếp xúc với những nhà báo nước ngoài không hiểu sao tôi vẫn cứ nghĩ đến một sự khác của ta và tôi tự hào với sự khác ấy. Đó là nền báo chí cách mạng của chúng ta được “thai nghén” từ đêm trước Cách mạng. Nó sinh ra, lớn lên, đồng hành với sự nghiệp vĩ đại của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Có lẽ thế, ở Việt Nam ta có một khái niệm riêng về những người làm báo, đó là phóng viên chiến trường. Trên chiến trường những nhà báo ấy tay bút, tay súng, họ tác nghiệp với tâm thế, bản lĩnh của người chiến sĩ trên mặt trận. Chỉ tính riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có khoảng 400 phóng viên chiến trường đã ngã xuống. Chiến tranh đi qua, giữa những ngày hòa bình, dựng xây đất nước, đọc tác phẩm của họ người đọc vẫn cảm nhận được sự thấm đẫm mồ hôi và máu. Kỳ lạ thay những tác phẩm báo chí ấy vẫn sống mãi, vẫn còn sức lôi cuốn triệu triệu người theo dõi, thời gian càng lùi xa càng có giá trị thức tỉnh lương tri loài người tiến bộ.
 |
Phóng viên Báo Quân đội nhân dân trò chuyện với chiến sĩ đảo Len Đao trong chuyến tác nghiệp tại quần đảo Trường Sa, tháng 3-2015. Ảnh: PHÚ SƠN |
Tôi trở thành người viết báo từ lúc nào không rõ, có lẽ từ trong cuộc chiến đấu sinh tử ở chiến trường những năm đánh Mỹ. Những ngày ấy, nhắc đến Trung đoàn Phú Xuân của chúng tôi trên chiến trường Thừa Thiên-Huế không mấy ai không biết đến những trận quyết chiến giữ đất trên những cao điểm Mỏ Tàu, Hòn Vượn, Động Tranh… Tôi được Ban Tuyên huấn trung đoàn giao nhiệm vụ ghi lại nhật ký từng trận đánh để làm tư liệu tuyên truyền. Buổi xế chiều cuối tháng 12-1974, ngồi tựa lưng vào vách chiến hào trên cao điểm Mỏ Tàu để viết thì bất ngờ một quả pháo “lạc bầy” của địch rơi xuống, cắt đứt chiến hào hai đoạn và hất tung quyển sổ ghi chép của tôi. May mà sau đó bới tìm lại được trong đống đất trên mép chiến hào. Anh em gọi tôi là “Nhà báo trung đoàn”. Tôi yêu thích và tự hào với tên gọi ấy. Giữa sự sống ác liệt, mất còn của chiến tranh, tên gọi ấy như len vào trong tâm thức và tạo nên sự đam mê cầm bút của tôi.
Sau mười năm kể từ ngày cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc, từ một “Nhà báo trung đoàn”, tôi được điều về làm phóng viên Phòng Quân sự, nay là Phòng biên tập Quốc phòng-An ninh của Báo Quân đội nhân dân. Ngày ấy, trong biên chế của tòa soạn, trước đó Phòng Quốc phòng-An ninh còn có tên Phòng Huấn luyện chiến đấu. Tôi được phân công chuyên viết về huấn luyện chiến đấu, vì vậy mỗi khi xuống đơn vị anh em chiến sĩ lại gọi đùa tôi là “phóng viên chiến đấu!”. Làm phóng viên Báo Quân đội nhân dân sau cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc toàn thắng, tôi lại có dịp góp mặt trên các chiến trường trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Cái duyên của “Nhà báo trung đoàn” vẫn còn trong tôi khi đã trở thành một phóng viên thực thụ trên các ngóc ngách của chiến trường.
Khi cầm bút ghi lại những dòng chữ này, hồi ức của hơn 30 năm làm báo lại ùa về. Những nhà báo chúng tôi trước hết phải là người chiến sĩ, phải có kiến thức quân sự, bản lĩnh chiến đấu, mưu trí sáng tạo để xử lý những tình huống chiến đấu trên chiến trường. Điều đó không chỉ học trên bãi tập mà phải kề vai, sát cánh với bộ đội trên mặt trận. Tôi nhớ một lần lên điểm tựa Cốc Nghịu trên biên giới, vừa nói chuyện với chiến sĩ, vừa ghi chép, tôi quay lưng lại phía sau để chụp ảnh một bản người Mông cheo leo dưới sườn núi buổi chiều sau trận pháo kích. Nguyễn Văn Thực, một chiến sĩ trẻ của Sư đoàn 346 lập tức xoay người tôi lại, anh nói: “Khi đứng dưới chiến hào không được quay lưng về phía trước”. Thực vừa nói vừa đè bẹp tôi xuống chiến hào sau một loạt pháo xé rách chiều hoàng hôn. Người lính trên trận địa phải luôn nhìn về phía trước để không bị bất ngờ. Thực đã nhìn thấy chớp lửa đầu nòng bên kia biên giới và anh nhanh tay đè tôi xuống khi loạt pháo vừa kịp chạm vào điểm tựa của ta. Lạ thay, hôm nay đọc lại bài phóng sự ấy, một bài phóng sự viết về cuộc chiến đấu của những người lính thế hệ sau chúng tôi, tôi lại như thấy Thực đang đứng trước mặt, không phải đứng giữa chiến hào, không phải ôm khẩu súng trong tay… Gần 30 năm rồi, người chiến sĩ nhỏ bé quê Thái Bình trên điểm tựa Cốc Nghịu ấy, bây giờ ở đâu? Anh là một kỹ sư, một bác sĩ, một nhà giáo hay là một doanh nhân…?
Khoảng giữa năm 1985, nhân kỷ niệm 10 năm Ngày miền Nam giải phóng-thống nhất đất nước, có hai nữ phóng viên hãng truyền hình CNN đến Báo Quân đội nhân dân làm việc. Họ đề nghị với Tổng biên tập, Thiếu tướng Trần Công Mân cho gặp một vài phóng viên đã trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Tôi được Tổng biên tập gọi lên phòng khách để trò chuyện với hai nữ phóng viên CNN. Trong cuộc nói chuyện ấy người nữ phóng viên ngồi cạnh cứ nhìn chăm chăm vào đôi giày cao cổ dưới chân tôi. Một lúc sau cô ta vẽ đôi giày ấy, dưới đôi giày tôi nhìn thấy những nét vẽ tua tủa như những ngọn cỏ tranh. Nhưng khi vẽ xong, lướt qua dòng chữ chú thích dưới bản vẽ cô ta ghi một câu đại ý là: “Đôi giày đạp lên những chông gai”. Sau khi nghe Tổng biên tập nói lại cuộc trò chuyện trước đó giữa ông và hai nữ phóng viên ấy tôi mới hiểu ra. Chiến tranh đã đi qua mười năm nhưng ở nước Mỹ hội chứng chiến tranh Việt Nam mới bắt đầu. Có lẽ bức tranh người nữ phóng viên ấy vẽ muốn lý giải cái điều: “Anh chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam trên đôi chân nhỏ bé đã đạp lên chông gai để đi tới ngày toàn thắng”.
Lại nói chuyện về những cuộc tiếp xúc với những nhà báo nước ngoài. Dường như những người làm báo phương Tây họ không hiểu được hoặc cố hiểu sai lệch về báo chí Việt Nam, về những người lính chúng tôi khi cầm bút. Họ lại càng không hiểu được với chúng tôi cây bút cũng là một thứ vũ khí. Tôi nhớ một lần theo đoàn công tác của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang thăm và làm việc ở Mỹ vào tháng 6 năm 2008. Một buổi sáng tại sảnh chờ Khách sạn Marriott (bang Texas), có phóng viên một hãng thông tấn ở Mỹ ngồi bên cạnh tôi, anh ta hỏi: “Ở Việt Nam không đa nguyên, vậy báo chí Việt Nam chỉ cho độc giả ăn một món thôi à?”. Nghe cái cách hỏi ấy tôi đã nổi gai người, may mà trấn tĩnh lại được. Tôi điềm tĩnh trả lời: “Đất nước tôi không chấp nhận đa nguyên nhưng báo chí chúng tôi lại rất đa dạng, nội dung rất phong phú đáp ứng nhu cầu thông tin của mọi tầng lớp xã hội”. Anh ta ghi chép lia lịa nhưng sau đó đứng dậy đi không hỏi lại tôi điều gì.
Đôi khi tôi nghĩ hơi quá chăng? Nghề báo cầm bút không phải để dạy đời, mà chính đời đã dạy mình khi cầm bút. Nhớ ngày tôi ra Trường Sa sau sự kiện 14-3-1988. Ngày mà cả nước đang hướng về Trường Sa, đang làm tất cả vì Trường Sa thân yêu. Nơi 64 chiến sĩ hải quân vừa ngã xuống vì cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc trên đảo Gạc Ma. Sau chuyến đi ấy tôi hoàn thành một bài phóng sự dài kỳ có nhan đề “Ghi chép ở Trường Sa”. Những trang viết nóng bỏng tả lại cuộc chiến đấu oanh liệt, kiên cường và sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ giữ đảo. Là người trực tiếp đến, trực tiếp gặp, nghe các chiến sĩ trên đảo nhưng khi chép lại, có những đoạn tôi không cầm được nước mắt. Nhất là cảnh mỗi buổi chiều những người lính trên đảo Sinh Tồn ngồi tỉ mẩn xếp những con ốc nón lên bốn ngôi mộ của đồng đội vừa hy sinh. Xếp xong họ đứng một hàng ngang với bốn ngôi mộ và lặng nhìn về phía đất liền. Vậy mà khi thông qua Tổng biên tập, ông đánh dấu đỏ vào những đoạn viết đó và khuyên tôi viết lại. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in lời của ông: “Người làm báo không nên khóc thay cho nhân vật, sự kiện. Nếu nước mắt mà làm cho thế giới không còn chiến tranh thì Trái Đất sẽ ngập chìm trong nước mắt. Ngòi bút là vũ khí của nhà báo, vũ khí phải sắc, phải nhọn mới chiến thắng được kẻ thù!”.
Vừa qua, nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch nước ký truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho nhà báo-liệt sĩ, Thượng úy Lê Đình Dư. Ông từng là phóng viên Phòng biên tập Quân sự Báo Quân đội nhân dân hy sinh ngày 31-1-1968 tại chiến trường Quảng Trị. Ông là một trong 9 nhà báo-liệt sĩ của Báo Quân đội nhân dân và các tờ báo tiền thân trước đó. Hôm nay, chúng tôi lật lại những trang sử 65 năm kể từ ngày ra đời (20-10-1950/20-10-2015) càng tự hào với một thế hệ đầu tiên của báo. Đó là những: Trần Cư, Lê Bách, Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Trúc Kỳ, Mai Văn Hiến, Vũ Tú Nam, Dương Bích Liên… Đó là những nhà báo-liệt sĩ Trần Đăng, Hoàng Lộc, Thâm Tâm…
Tôi đã gắn cuộc đời binh nghiệp của mình với nghề báo như thế. Đến bây giờ lần giở lại những trang mình viết về bộ đội, về chiến tranh, tôi có quyền tự hào mình là một phóng viên của Báo Quân đội nhân dân. Một tờ báo sinh ra từ mặt trận và theo dấu chân chiến sĩ tới mọi ngõ ngách của chiến trường. Nhà báo-danh hiệu ấy thật cao quý, thật vinh quang. Tôi không mong phải cầm cây bút ép mình trên chiến hào mà viết. Nhưng những nhà báo áo lính của chúng tôi lại phải biết vâng mệnh Tổ quốc khi cần. Nhà báo thời nào cũng vậy, tâm phải sáng bút mới sắc. Tôi lại nhớ lời Tổng biên tập, Thiếu tướng Trần Công Mân dặn: “Hai người cùng nhìn xuống, một người nhìn thấy vũng nước, còn nhà báo nhìn thấy những vì sao”.
Thiếu tướng HỒ ANH THẮNG